THI CA YÊU NƯỚC
THỜI THỰC DÂN ĐÔ
HỘ
Ngô
Quốc Sĩ
Dòng văn học đầy hùng khí của dân Việt
đã tiếp tục chảy dài như hơi thở Lạc Hồng
từ cổ chí kim, qua những tiếng thơ như dao cắt, như tiếng thét chiến mã,
hay như những ngọn roi Phù Đỗng, nung nấu
tinh thần đấu tranh của dân Việt qua ngàn năm nô lệ giặc Tàu, trăm năm đô hộ giặc Tây và hơn nửa
thế kỷ dưới chế độ cộng sản độc tài…
Nhìn lại thời đất nước bị thực dân Pháp
đô hộ, dân Việt đã biểu tỏ tinh thần bất khuất chống ngoại xâm qua các cuộc khởi
nghĩa tiêu biểu như Phong Trào Cần Vuơng, khởi nghĩa Yên Báy, lửa Bến Nghé..
Trong lãnh vực văn chương, nguời ta cũng
tìm thấy những dòng thơ yêu nước thể hiện tinh thần độc lập và óc bài ngoại của
dân Việt qua nền văn chương bác học. Nếu hôm nay, dân Việt đang cảm thấy nhục
nhã tột độ trước cảnh tập đoàn lãnh đạo thái thú đang nhục nhã nâng bi các quan
thầy Trung Cộng để dựa thế và giữ ghế, thì ngày xưa, dân Việt cũng trải qua những
nỗi nhục nhã đó duới thời thực dân đô hộ, qua những dòng thơ cổ điển của Tú Xuơng,
Nguyễn Khuyến Tản Đà..
Tú xương là mẫu người có tài nhưng mãi
lận đận về thi cử, đã phải than thân để tự an ủi là “học tài thi phận”. Con nguời tài hoa phải sống nhờ người vợ tần tảo
“quanh năm buôn bán ở mom sông, nuôi đủ 5
con với một chồng”, nhưng vẫn luôn cánh cánh bên lòng hình ảnh đất nuớc
tang thương với tâm trạng tủi nhục đau đớn và yêu nước thiết tha. Nhìn quanh nhìn
quất, ông Tú Vị Xuyên chỉ thấy bóng dáng quê hương vắng vẻ điêu tàn, dân chúng
thì ngơ ngác lầm than, nguời hiền vắng bóng, chẳng còn biết cậy vào ai, tin vào
ai? Sờ lên đầu tóc bạc phơ, Tú Xuơng đã
thốt lên như một lời than:
Nuớc
biếc non xanh coi vắng vẻ
Kẻ đi nguời lại dáng bơ vơ
Hỏi người chí thấy mây xanh ngắt
Đợi nước càng thêm tóc bạc phơ
Điều mỉa mai là trước nổi hoang vắng của đất nuớc, tình trạng bơ vơ của dân tộc, thì
thực dân lại bày những trò thi cử lố bịch, với những cảnh chướng tai gai mắt nhục
nhã hết chỗ nói:
Xe
kéo rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Còn gì mỉa mai và cay đắng hơn phải
chứng kiến cảnh ông tú ông cử vốn được coi là tai mắt của dân Việt, thuộc giới
sĩ phu mà Nguyễn Công Trứ đã tôn vinh đứng đầu tứ dân “Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên”, nay lại chịu
cảnh nhục nhã trớ trêu hết chỗ nói:
Trên
ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng
Tú Xuơng không dấu nổi sự phẫn nộ,
mắng thẳng vào mặt bọn nguời vọng ngoại, không cảm nhận được nỗi nhục mất nuớc:
Sao không nghĩ đến điều tu sỉ
Ngoảnh cổ mà xem lại nuớc nhà
Điều đáng buồn là những hình ảnh ngụy
trí thức thời ông Tú sông Vị lại tái diễn hôm nay duới thời cộng sản, đúng như
Duơng Thu Huơng đã mô tả là một lũ khiếp
nhược và ngu xuẩn, chỉ biết hưởng thụ vui chơi ở “phần thân thể duới rốn,” và Bùi Minh Quốc đã cay đắng chỉ mặt “Điếm bình dân bán trôn nuôi miệng, điếm trí thức bán miệng nuôi
trôn..”
Dưới
ngòi bút của Nguyễn Khuyến, những cảnh lố lăng do thực dân bày ra trong các ngày
hội, cũng không kém chuớng tai gai mắt.
Bà
quan tếch hếch xem bơi trải
Thằng bé lom khom nghé hát chèo
Cậy sức cây đu nhiều chị bám
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo
Vui cho ai và buồn cho ai? Nhìn cảnh
vui chơi của bọn trẻ do thực dân bày ra
để ru ngủ dân Việt, Nguyễn Khuyến chỉ cảm thấy ngục nhã đau nhói:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu
Mục đích của những trò vui trong các
ngày hội hè đình đám chỉ là ru ngủ dân Việt truớc nỗi nhục mất nuớc thời thực dân,
giống hết như hội “nghìn năm Thăng Long”
do cộng sản Việt Nam tổ chức trước đây, được mô tả là thật “hoành tráng”, mà mục đích cũng chỉ để làm
dân Việt quên đi nỗi nhục Bắc Thuộc Mới đang diễn ra tại Việt Nam hôm nay. Thật
vậy, giờ đây, tiếng gọi “Thoát Trung”
đang vang vọng, kêu gọi dân Việt trở về với thời oanh liệt với những chiến thắng
Bắc Quân lẫy lừng, thì ngày trước Nguyễn
Khuyến cũng đã nghe tiếng quốc kêu văng vẳng, như thế tiếng gọi của hồn nuớc thời
vàng son, nay chỉ còn lại hồn tan máu chảy:
Khắc
khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Cũng như bao nguời dân Việt khác,
trong hoàn cảnh éo le nhục nhã, vẫn không mất niềm tin. Nguyễn Khuyến đã nhìn về
tương lai với cặp mắt hy vọng, ngày mai trời lại sáng, đông hết lại sang xuân. Đó
chính là lẽ tuần hoàn của vũ trụ
Cũng
muốn sống thêm dăm tuổi nữa
Thử xem trời mãi thế này ư?
Tinh thần chống ngoại xâm của dân Việt
cũng đã thể hiện rõ rệt qua cuộc tranh luận lịch sử giữa Tôn Thọ Tuờng và Phan
Văn Trị. Tôn Thọ Tường chủ trương thỏa hiệp với Pháp, vì biết rằng, thực dân qúa
mạnh, dân Việt không thể chống nổi :
Miệng
cọp hàm rồng chưa dễ chọc
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay
Nhưng Phan Văn Trị đã trưng dẫn những
chiến thắng hào hùng trong sử Việt, và thẳng thắn nhắn với Tôn Thọ Tường đừng dựa
thế ngoại bang mà hù dọa dân Việt:
Đừng
muợn hơi hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá há lung lay
Lòng Phan Văn Trị sắt đá không
lung lay. Ý chí chống ngoại xâm của dân Việt cũng như gang thép, không bao giờ
suy suyễn, làm ta liên tuởng tới ý chí sắt thép của dân Việt trong công cuộc chống
cộng sản hôm nay như Nguyễn Chí Thiện đã khẳng định:
Dù có phải xương tan thịt nát
Trong lửa thiêng trừng phạt bọn gian
ma
Dù chết chưa trông thấy mùa nở hoa
Thì cũng sống cuộc đời không nhục nhã
Cuối
dòng thi ca cổ điển yêu nuớc thời thực dân, người ta không thể không nói tới
thi sĩ sông Đà Núi Tản. Thực vậy, Tản Đà tuy thường đuợc mô ta như một thi sĩ
thuộc nòi tình với Thề Non Nước, Trách Nguời Tình không quen biết,
Tống Biệt,. hay như một nhà thơ “
ngông” với bầu ruợu túi thơ, “say sưa
nghĩ cũng hư đời, hư thời hư vậy say thời
cứ say”, nhưng người ta không thể quên bài thơ Vịnh Bức Dư Đồ Rách, bày tỏ
lòng yêu nuớc thiết tha của ông trước cảnh gia tài của mẹ đã được cha ông vun xới,
nay bị thực dân giày xéo tả tơi. Thực là mỉa mai đến nực cười:
Nọ bức dư đồ thử đứng coi
Sông
sông núi núi khéo bia cười!
Biết
bao lúc mới công vờn vẽ
Sao
đến bây giờ rách tả tơi?
Tâm trạng đau xót của Tản Đà truớc hiện
thực đất nuớc rách tả tơi, cũng tương tự như nỗi xót xa của Phan Thanh Giản khi
nhìn thấy ba tỉnh miền Nam Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên lọt vào tay thực dân, làm uổng công đi sứ của ông:
Cũng
tưởng một lời an bốn cõi
Nào hay ba tỉnh
lại chầu ba
Điều đáng khích lệ, là cũng như các
thi sĩ khác, Tản Đà vẫn không đánh mất niềm tin. Ông biết con cháu có lỗi, đã
quay lưng ngoảnh mặt truớc niềm đau mất nước của dân tộc, giống hệt như bọn trẻ
“con cha cháu ông” đang sống phè phỡn
trên xuơng máu dân Việt hôm nay. Nhưng Tản Đà không ngồi đó mà trách móc than
vãn, trái lại ông đã đem vai gánh vác, quyết tâm khâu vá và dựng lại cơ đồ. Đó chính là tinh thần trách nhiệm của nguời
trí thức:
Ấy trước ông cha mua để lại
Mà
sau con cháu lấy làm chơi
Thôi
thôi có trách chi đàn trẻ
Thôi
để rồi ta sẽ liệu bồi
Đến đây, hẳn chúng ta phải tự hỏi, hôm nay, truớc tình trạng đất nuớc tả tơi với
đại họa Bắc thuộc mới từ Hội Nghị Thành Đô, đến Hiệp Định Biên Giới và
Lãnh Hải, Bauxít Tây Nguyên, Rừng núi Việt
Bắc, Tự trị Bình Dương ,và nhất là Công
Nghệ Vũng Áng.. có bao nguời can đảm đứng
ra lãnh nhận sứ mệnh cứu nguy Tổ Quốc, gánh vác đại cuộc, xây đắp sơn hà? Một
Lê Quốc Quân, một Nguyễn Văn Đài, Nguyễn
Đan Quế, LM Nguyễn
Văn Lý ,..và còn ai nữa? Bức dư đồ
đã xé nát, đất mẹ Vệt Nam đã bị chia cắt.
Thi thể mẹ Việt Nam đang ruớm máu. Con tim dân Việt đang tan tác, ai sẽ xuống đuờng
phất ngọn cờ độc lập và dân chủ? Dân Việt đang chờ đợi thêm nhiều cô giáo Lam, nhiều Phuơng Uyên, Việt Khang, Huỳnh Thục Vy..và nhất là
những vị chủ chăn can đảm như Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, Giám Mục Nguyễn Thái
Hợp, Linh Mục Đặng Hữu Nam hiện đang dẫn
đầu cuộc đấu tranh bảo vệ môi sinh, chống lại đại họa Bắc Thuộc mới. Mong thay!
No comments:
Post a Comment