GIAI
THOẠI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
Ngô Quốc Sĩ sưu tầm
Giai thoại là một câu chuyện hay và đẹp.Từ
điểnViệt Nam của Hội Khai Trí Tiến Đức định nghĩa giai thoại Là “một câu chuyện tình thú”, tiêu biểu như
chuyên Tú Uyên. Tự điển Việt Anh của Nguyễn Văn Khôn dich giai thoại là một câu
chuyện lý thú “ A beautiful story”..
Hiểu như thế, giai thoại là “một câu chuyện” đuợc chép lại hay kể lại
để mua vui trên diễn đàn văn học, thuờng gợi hứng cho những nụ cười ý nhị, nhưng
không thể xác định tính cách trung thực của nó.
Giai thoại không phải chỉ để mua
vui, mua nụ cười cho đời bớt tẻ nhạt, mà còn có giá trị văn chương, vừa thưởng
ngoạn, vừa phản ảnh tư duy chính trị hay đạo đức. Xin trích dẫm một số giai thoại
tiêu biểu:
-Giai thoại “Tuyệt Tứ Khoái”
Bốn ông Đồ ngồi uống ruợu, ngà ngà say, nổi hứng
làm bài thơ Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt để vịnh cái khoái của đời. Mỗi người làm một câu,
thế là tứ khoái!
Đồ Gàn nhìn trời nóng chang chang, ruộng đất
nứt nẻ, ứng khẩu đọc lên:
Đại
hạn phùng cam lộ (Trời hạn hán, gặp mưa trong).
Cử Tạ vốn là người xứ khác, một mình
lạc đến vùng này, lúc nào cũng cảm thấy cô độc. Buồn cảnh đất khách quê người,
ông thốt lên:
Tha
hương ngộ cố tri (Xa nhà gặp lại bạn cũ).
Nghè Đe
ta mới giật mình vì không biết tả cái khoái gì. Nhìn quẩn nhìn quanh, chợt ông
thấy hai con thạch sùng đang quấn đuôi trên trần nhà, đắc chí, Nghè Đe rung đùi
rồi đọc:
Động
phòng hoa chúc dạ (Động phòng đêm tân hôn).
Đồ Hàn công danh lận đận, thi hỏng mãi phải
quay về làng đi dạy học. Nghĩ đến đời mình, Đồ Hàn lẩm bẩm than:
Kim
bảng quải danh thì (Bảng vàng đề tên).
Thế là bốn ông Nho chùm ngồi vuốt râu
và vừa đọc lại thơ, vừa khen lấy nhau…Lúc bấy giờ, chú tiểu đồng pha trà đi
ngang, nghe lỏm thơ, cứ lắc đầu. Tinh mắt, ông Nghè mới bảo thằng tiểu đồng:
-Mày thấy bài thơ tả bốn cái khoái
trên đời này không đúng sao mà cứ lắc đầu mãi?”
Tiểu đồng liền thưa:
-Thưa cụ, bài thơ quả có hay và tả
đúng bốn cái khoái, nhưng con thấy vẫn còn chưa thật là khoái ạ!”
Cụ Nghè ngạc nhiên hỏi:
-Thế làm sao mới thật là khoái?”
Chú tiểu đồng ngẫm nghĩ rồi thưa
-Dạ thưa cụ, con nghĩ nếu thêm vào mỗi
câu hai chữ nữa thì mới thật là khoái ạ!”
Các cụ ngạc nhiên nhao nhao lên mắng
thằng tiểu đồng, làm thằng bé hốt hoảng nín thinh, ứa nước mắt.
Đồ Hàn lên tiếng bênh thằng tiểu đồng:
-Thôi
các cụ cứ để cho nó nói hết! Mày cứ nói đi, nếu không ra gì thì chết với các
cụ!”
Tiểu đồng lấm la lấm lét rồi nói rằng:
-Thưa
cụ, câu thứ nhất thì con nghĩ nên thêm vào “Thập niên“. Nói xong nó đứng
khoanh tay nhìn xuống đất.
Các cụ nhìn nhau.
-Thằng này cũng có lý
vì nếu là mười năm hạn hán mà được mưa thì thật là càng khoái hơn nữa!
Thế rồi câu thứ hai? – Một cụ hỏi.
-Dạ con thêm vào
“Lữ
khách” vì xa nhà đã buồn, mà xa nhà một mình, bây giờ gặp bạn cũ thì
thích lắm ạ.
Các cụ gật gật đầu, có vẻ đồng
ý. Nhưng đợi mãi, không thấy thằng tiểu đồng nói gì. Sốt ruột, một cụ lên tiếng
giục them ý câu 3. Tiểu đồng đỏ mặt:
-Thưa cụ con không dám.”
Đồ Gàn:
-Mày cứ nói, các cụ tha cho.
Tiểu đồng:
- Dạ con xin
thêm vào câu này chữ “Tu sĩ”
Các cụ mỉm cười. Động phòng đã là thú
rồi, mà lại là tu sĩ chưa bao giờ hưởng mùi vị thì chắc chắn là tuyệt.
Không đợi các cụ, tiểu đồng thêm
vào:
-Còn câu cuối, con xin thêm vào “Hàn
nho” vì thi đậu là thích, mà một nho sĩ nghèo, thi đậu để mang lại
no ấm cho gia đình thì quả không gì bằng…”
Nghe
đến đây, Đồ Hàn quay đi. Thế là bài thơ Tuyệt Tứ Khoái trở
thành:
Thập niên Đại
hạn phùng cam lộ
Lữ
khách Tha hương ngộ cố tri
Tu sĩ
Động phòng hoa chúc dạ
Hàn
nho Kim bảng quải danh thì
-Giai
thoại “đá bèo” về Trạng Quỳnh;
Một bà Chúa có nhan sắc mà tính kiêu
ngạo, đi ra chơi phố
phường thấy ai trái ý là sai lính bắt đánh liền. Quỳnh lững thững đi
chơi, gặp kiệu Chúa. Gần đấy có cái ao bèo. Quỳnh vội vàng chạy
xuống cầu ao đứng đá nước chơi. Chúa biết Quỳnh, thấy chơi lẩn
thẩn như thế mới hỏi:
- Ông làm gì đó?
Quỳnh ngẩng lên thưa:
- Tôi ở nhà buồn quá, ra ao đá
bèo chơi!
Chúa đỏ mặt tía tai, bỏ đi.
-Giai
thoại “Đón sứ Tàu”về Trạng
Quỳnh
Triều đình chuẩn bị đón sứ nhà Thanh
sang nước ta. Chúa nghe nói tên này là kẻ hống hách, hợm hĩnh, bèn kêu Quỳnh
vào, giao cho giữ việc nghênh tiếp. Khách ra đi, xuống đò của Quỳnh. Khi đò
đến giữa sông, một tên trong nhóm sứ Tàu nhột bụng, vãi rắm nghe một tiếng
"bủm". Không thấy xấu hổ
thì thôi, hắn còn đọc một câu chữa thẹn xấc xược:
Lôi động Nam bang (Sấm động nước Nam)
Quỳnh đang cầm chèo, liền đứng cậy
vạch quần đái vòng cầu qua đầu sứ, vừa đái vừa đọc:
Vũ qua Bắc hải (Mưa qua bể Bắc)
Tên sứ Tàu giận điên tiết, xộc lại
định đánh Quỳnh, Quỳnh trở cán chèo thủ thế rồi mắng:
"Tiền phát lôi, hậu phát vũ, thiên địa chi lý nại hỉ "
(Sấm động trước, ắt sau sẽ có mưa, luật trời đất là thế )
Cả bọn khách Tàu sửng sốt nhìn
nhau, không thốt được một lời vì câu đối đáp bắt bí quá đúng của anh lái đò. Cả
nhóm trong bụng vừa tức, vừa sợ, cứ ngậm miệng cho đến nơi.
-Giai
thoại “Cô hàng nuớc” về bà Đoàn Thị Điểm
Bà Điểm nổi tiếng hay chữ. Nguời
biết tiếng bà qua bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn. Nhưng nguời ta còn
phải cuời với bà qua giai thoại “cô hàng nuớc”
Triều
đình chuẩn bị đón sứ nhà Thanh sang nước ta, bà Ðoàn Thị Ðiểm giả làm người bán
hàng nước cho khách qua đường.
Khách Tàu đến, đi ngang quán bà
Ðiểm, thấy trong hàng có một cô gái xinh xắn ngồi bán, liền hùa nhau kéo vào uống
nước, sẵn có buông lời chọc ghẹo, bỡn cợt. Một tên líu lo đọc bâng quơ:
"Nam bang nhất thốn thổ bất tri nhân
canh"
(Một tấc đất nước Nam không biết bao nhiêu người cày, ý cho rằng đàn bà nước
Nam lẳng lơ)
Bà Ðiểm đang nhai trầu, nhổ toẹt
một bãi, đọc:
"Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất"
(Bọn quan quyền phương Bắc đều từ chỗ đó mà ra cả )
Nghe xong câu ấy, cả bọn ngừng uống
nước, tròn mắt, há hốc miệng nhìn bà Ðiểm. Chúng không thể ngờ rằng một bà bán
nước bên
đuờng lại có tài văn chương đáng nể như thế!
-Giai
thoại “Ông Tổng Cóc” về bà Hồ Xuân Hương
Ông Tổng Cóc có tên
thường gọi là Kình, quê ở làng Gáp, xã Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ). Khi đi lính
lên chức Đội, gọi là Đội Kình. Khi làm Phó tổng được gọi là Tổng Kình. Tên chữ
của Tổng Kình là Nguyễn Công Hòa. Cóc là tên gọi lúc còn bé. Gọi tên xấu xí thế
cho tà ma bớt quấy. Hồ Xuân Hương là vợ
bé của Tổng Cóc. Sau này Hồ Xuân Hương có bài thơ Khóc Tổng Cóc nên dân làng mới
gọi ông là Tổng Cóc.
Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế
thôi.
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,(1)
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!(2)
-Giai thoại “Chiêu
Hổ”về bà Hồ Xuân Hương
Chiêu Hổ nổi tiếng lẳng lơ, có khi sàm sỡ, chọc
ghẹo Hồ Xuân Huơng, bị bà mắng cho:
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt
giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà
biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó
tay!
Chiêu
Hổ đúng là anh mặt dày, gan liều, trơ trẽn đã lắm, nên coi chuyện đó là thường,
đốp lại:
Này
ông tỉnh, này ông say
Này
ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Hang
hùm ví bẵng không ai mó
Sao
có hùm con bỗng chốc tay?
Hồ Xuân Hương có lần trách và nhắn:
Sao nói rằng năm lại có ba
Trách
người quân tử nói sai ngoa
Bao
giờ thong thả lên chơi nguyệt
Nhớ
hái cho xin nắm lá đa!
Chiêu Hổ trả lời thật lỗ
mãng:
Rằng
gián thì năm, quý có ba
Trách người thục nữ tính không ra
Ừ rồi
thong thả lên chơi nguyệt
Cho
cả cành đa, lẫn củ đa…
-Trường hợp Đào DuyTừ và “Nụ Tầm Xuân’
Nguyên văn bài Nụ Tầm Xuân như sau:
Bước
xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ
tầm xuân nở ra xanh biếc
Em
có chồng anh tiếc lắm thay!
Sao
anh không hỏi những ngày còn không?
Bây
giờ em đã có chồng
Như
chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá
cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim
vào lồng biết thuở nào ra.
Ý nghiã của bài thơ thật chân chất, có
một chút bóng gió nhưng không có gì bí hiểm.
-Có một cuộc gặp gỡ giữa một một nguời
con trai và nguời con gái đồng quê trong khung cảnh nên thơ, có hoa buởi, có vuờn
cà, có nụ tầm xuân
-Có một cuộc đối đáp thật chân tình giữa
nguời con trai tỏ lòng hối tiếc, đã bỏ lỡ
cơ hội, không dám tỏ tình với ngươi con gái khi nàng còn độc thân. Và nguời con
gái cũng trách người con trai đã để mất cơ hội, không ngỏ lời khi nàng chưa vướng
bận vào duyên nợ vợ chồng.
-Nguời con trai không vào đề thẳng mà
di vòng quanh qua nhịp cầu thiên nhiên của vườn cà, hoa buởi, nụ tầm xuân, đúng
theo tâm lý người dân quê Việt Nam sống với thiên nhiên và hòa mình vào cảnh vật..
-Người con trai có tài tán tỉnh, nhưng
không sỗ sàng chút nào. Chàng đã tỏ tình một cách kín đáo, tế nhị, chàng đã sử
dụng lối ví von để ngầm ca tụng sắc đẹp của nàng như nụ hoa tầm xuân và hương
thơm nàng toát ra như hoa bưởi.
-Câu chuyện tâm tình trai gái có tiếc
nuối, có tránh móc nhẹ nhàng chỉ dừng lại ở đó, kết thúc một mơ ước trễ muộn..Không
hề có dọa dẫm, răn đe..nghĩa là tình lỡ vẫn đẹp, như cảm nhận của Hồ Dzếnh “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở, Đời hết vui
khi đã vẹn câu thề”…và Xuân Diệu đã gọi đó là “thú đau thương”. Đó phải chăng là vẻ đẹp của vần trăng khuyết?
Hiện nay, đang có một cuộc tranh
luận chưa ngã ngũ thế nào. Đó là cuộc tranh luận “bài Nụ Tầm Xuân là ca dao hay là thơ của Đào Duy Từ?”
Nếu là ca dao thì bài nụ tầm xuân là
văn chương dân gian, mà tác giả là một nguời bình dân nào đó, không để lại danh
tánh và không thể xác định bài ca dao đuợc sáng tác trong hoàn cảnh cụ thể
nào?
Còn nếu là thơ của Đào Duy Từ thì bài
Nụ Tầm Xuân có tác giả hẳn hoi, và tất nhiên được sáng tác trong một trường hợp,
một hoàn cảnh cụ thể, tiêu biểu như bà Huyện Thanh Quan sáng tác bài Qua Ngang
khi bà dừng chân tại đèo này, tức cảnh sinh tình mà viết ra..Bà Hồ Xuân Hương
sáng tác bài thơ Đèo Ba Dội khi ngắm cảnh đèo 3 khúc cheo leo..
Một số người cho rằng, bài Nụ Tâm
Xuân không phải là ca dao thuộc văn chương dân gian, mà là thơ của Đào Duy Từ,
một dấu tích văn chương có pha lẫn với chính trị..
Ông
Ngọc Phương Nam Trong bài viết mang
tên “Chuyên luận Hoàng kim” đã quả
quyết rằng, bài thơ Nụ Tầm Xuân là của Đào Duy Từ. Ông đã đưa ra những chứng luận
lịch sử để bổ túc cho quan điểm của ông như sau:
Truớc hết Đào Duy Từ là một nhân tài
vùng đất Thanh Hóa, đã bị chúa trịnh bạc đãi ở Đàng Ngoài. Lúc nhỏ, học rộng
tài cao nhưng không đuợc đi thi, vì cha ông làm nghề kép hát, “xuớng ca vô loài”". Mẹ ông phải dút lót, đổi họ cha là Đào thành
họ mẹ là Vũ để đuợc dự thi. Vũ Duy Từ đậu thi Hương chuẩn bị thi Hội. Xã truởng
Lưu Minh Phương đòi cuới bà Kim Chi làm vợ theo lời hứa để trả ơn. Bà từ chối,
nên bị triều đình bắt Vũ Duy Từ phải hủy
bỏ kỳ thi Hội, cởi bỏ áo mũ và bắt giam truy xét. Bà Kim Chi phẫn uất tự tử.
Đào Duy Từ vào Đàng Trong, được chúa
Nguyễn Hoàng trọng dụng. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cử Đào Duy Từ làm quân sư
chính trị và quân sự, đắp lũy xây thành chống quân Trịnh từ đàng ngoài. Đào Duy
Từ nỗi tiếng như một anh tài
Chúa trịnh tiếc rẻ, đã bỏ lỡ cơ hội không biết
trọng dụng họ Đào một hiền tài xuất chúng , thật là uổng phí! Để chuộc lại cơ hội,
Chúa Trịnh Tráng tìm cách liên lạc, vận động họ Đào bỏ chúa Nguyễn trở về Đàng
Ngoài phục vụ chúa Trịnh.
Chúa Trịnh Tráng dùng 4 câu thơ ve vãn
như một lời tự trách và mở lòng đón chờ:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước
xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ
tầm xuân nở ra xanh biếc
Em
có chồng anh tiếc lắm thay!
Đào Duy Từ đang phục vụ chúa Nguyễn ở
Đàng Trong, đã từ chối lời mời của Chúa Trịnh bằng 6 câu thơ ý nhị:
Ba
đồng một mớ trầu cay
Sao
anh không hỏi những ngày còn không?
Bây
giờ em đã có chồng
Như
chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá
cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim
vào lồng biết thuở nào ra.
Qúa tiếc đã bỏ lỡ cơ hội, Chúa Trịnh vẫn
kỳ nèo, mong Đào Duy Từ nghĩ lại, nhưng Đào Duy Từ đã dứt khoát từ chối bằng 2 câu thơ, thêm vào nguyên bản:
Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em
ghen
Nhưng theo Phan Bảo Thư, bài Nụ Tầm
Xuân ngoài 3 phần đã ghi của Ngọc Phương Nam, phần (1) là lời tiếc nuối của Trịnh Tráng, phần
(2) là lời đối đáp của Đào Duy Từ, phần
(3) là lời từ tạ và từ biệt dứt khoát của Đào Duy Từ, còn có thêm phần (4), ghi
lại những lời hằn học của Trịnh Tráng như
một đe dọa:
Có ai về tới Đàng Trong,
Nhắn nhe Bố Đỏ liệu trông đường
về;
Mãi tham lợi bỏ quê quán tổ,
Đất nước người dù có như
không.
Ông Phan không dám khẳng định, bài Nụ Tầm Xuân là của Đào Duy Từ. Theo ông, không biết ai là tác giả của những
câu ca dao ấy, Trịnh Tráng và Đào Duy Từ sáng tác hay là chỉ góp nhặt từ trong
dân gian như viên đá quý trong đám sỏi đá của văn chương bình dân mà họ đã gặp
trên đường đi. Ông viết:
“Lịch sử còn đó, Thanh Đô Vương Trịnh Tráng
và Nội tán Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ đã đi vào lịch sử, chuyện chiêu dụ và khước
từ cũng đã rõ ràng nhưng câu chuyện văn chương thì vẫn còn là những ẩn khuất, lấy gì làm bằng chứng rằng hai bậc vương hầu Trịnh-Đào đã đối đáp với nhau bằng
những câu ca dao như thế. Văn khố nào lưu giữ bút tích của người xưa ? Chắc là
khó vì xét cho cùng thì đó là những bí mật quân sự. Khó tìm thấy câu chuyện văn
chương này trong những thư tịch khả tín nhưng giai thoại thì vẫn đồn đãi, lưu
truyền trong dân gian…! Và rồi nếu câu chuyện văn chương có thật thì hoa tầm
xuân nở ra xanh biếc cũng có thật. Phần khẳng định này phải nhờ đến những nhà
nghiên cứu văn học và những nhà thực vật học”
Tuy cuộc tranh luận còn kéo dài, nhưng công tâm mà nói, bài “Nụ tầm Xuân” chắc chắn phải là ca dao như xác nhận của
đa số các nhà nghiên cứu văn học.
Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt
Nam Thi HợpTuyển đã ghi
bài Nụ Tầm Xuân duới tên: Tiếc sự biết
nhau qúa chậm” trong phần Ca dao, gồm
10 câu như đã nói trong phần mở đầu.
Đỗ Văn Gia trong cuốn “Việt Nam Văn Học Sử” cũng đã giữ nguyên 10 câu Ca dao Đúng theo
nguyên bản của Dương Quảng Hàm
Nguyễn Văn Ngọc trong cuốn “Tục ngữ phong dao” lại chen thêm phần giữa
gồm 4 câu:
(Em có chồng anh tiếc lắm
thay..)
Thoạt vào anh nắm cổ tay
Sao trước em trắng mà rày em
đen
Hay là lấy phải chồng hèn
Cơm sống canh mặn nó đen mất
người
(Ba đồng..)
Đi tìm sự thuận lý, chúng ta nhận định
rằng, văn chương bình dân là kho tàng văn chương có giá trị riêng, phân biệt với
kho tàng văn chương bác học nêu rõ tên tác giả và tác phẩm. Bài Nụ Tầm Xuân ,
trong ý tứ cũng như lời văn, không mấy thích hợp với giả thuyết về cuộc đối đáp
lịch sử giữa Đào Duy Từ và Chúa Trịnh.
Thật vậy cuộc tranh chấp lịch sử Đàng
Trong chúa Nguyễn và Đàng ngoài Chúa Trịnh, gọi là Trịnh Nguyễn phân tranh là
có thật. Câu nói đầy ẩn dụ của Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) nói với chúa Nguyễn Hoàng (1542-1613) sau
khi người anh ruột của ông là Nguyễn Uông đã bị anh rể Trịnh Kiểm giết chết
cũng có thể là thật: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại
dung thân”. Sự kiện gia đình Đào Duy Từ bị bạc đãi do Chúa
Trịnh Đàng ngoài, vì quan niệm kỳ thị “xuớng
ca vô loài” nên Đào Duy Từ có tài mà bị chèn ép không ngẩng đầu lên đuợc,
xem ra cũng có thể là thực trong xã hội phong kiến miền Bắc. Sự kiện Đào Duy Từ giúp chúa Nguyễn
xây Lũy Trường Dục và Lũy Nhật Lệ còn gọi là Lũy Thầy, nhắm ngăn chặn quân Trịnh
từ đàng Ngoài là có thực. Và sự kiện
Trịnh Tráng tiếc rẻ đã bỏ lỡ cơ hội, nên muốn chiêu dụ Đào Duy Từ về Đàng Ngoài
cũng có thể là thật.
Nhưng cấu trúc bài “Nụ tâm Xuân”, nếu phân tích thấu đáo, người
ta nhận thấy nhiều điểm “không thuận lý”
khi coi Đào Duy Từ là tác giả của bài thơ này để ghi lại cuộc đối đáp giữa ông
và chúa Trịnh Tráng.
Trước hết, sáu câu giữa, nói là của
Đào Duy Từ trả lời chúa Trịnh. Thế thì 4 câu đầu, lời ve vãn của Chúa Trịnh là
của ai? Chẳng lẽ Đào Duy Từ sáng tác rồi gán cho Chúa Trịnh sao?
Tiếp đến, nội dung 4 câu mở rất tình tứ,
lãng mạn, trèo lên cây bưởi, rồi buớc xuống vuờn cà, hái hoa buởi, hoa tầm
xuân, thích hợp với khung cảnh đồng quê và lời tỏ tình chân chất của trái gái làng
quê, tiếc nuối cho mối duyên tình bỏ lỡ cơ hội, hơn là lời ngỏ ý ví von của bậc
vương chúa.
Nhất là ý nghĩa 6 câu giữa, nói là lời
đáp của Đào Duy Từ càng không thuận lý, bởi lẽ Đào Duy Từ được chúa Nguyễn kính
nể trọng dụng làm quân sư, làm “ thầy” chính trị cũng như quân sự, nên mới đặt tên “Lũy Thầy” thì đâu có thể mang tâm trạng “chim bị nhốt trong lồng” hay “cá
cắn câu” như thể mắc kẹt không còn cách gỡ, muốn thoát ra không đuợc!
Cũng thế, 2 câu kết, Ngọc Phương Nam nói là lời từ chối của Đào Duy Từ cũng chưa ai
tìm thấy trong bài nụ tầm xuân đã được truyền bá trong văn chương. Đây có thể
là một thêm thắt cho đầy đủ câu chuyện ve vãn chính trị đó thôi
Ngoài ra, những câu thơ hằn học mà Phan Bảo Thư nghe nói là lời
Trịnh Tráng trách cứ Đào Duy Từ lại càng khó tin là có thực. Phải chăng có chuyện
giàn dựng cho giai thoại thêm phần thú vị đó chăng?
Phân tích Đặc tính của ca
dao, người ta nhận ra một đặc điểm nổi bật của cao dao là “Sống với thiên nhiên” và “thông
cảm gián tiếp”.
Nguời dân quê sống với thiên nhiên với
trăng thanh gió mát, nắng vàng tre xanh. Những cảnh đẹp thiên nhiên đó đã làm nảy
nở trong lòng trai thanh nữ tú những tình cảm tuyệt vời. Chính vườn cà tím, hoa
bưởi ngát thơm cộng với nụ tầm xuân chính là nụ tình, là nàng thơ cuả anh nên
anh mới tiếc nuối, tiếc lắm thay!
Thêm
vào đó, thông cảm của nguới Việt Nam là thông cảm gián tiếp. Người Tây Phương
có lối thông cảm trực tiếp, nói thẳng“I love You” “I hate you” hay nhìn thẳng vào mắt nguời
tình. Trong khi người Việt Nam tế nhị kín đáo nên phải đi đuờng vòng vo tam quốc
khi tỏ tình. Anh phải đi từ “mây xanh mây
trắng mây vàng” rồi mời dám thổ lộ tâm tình thầm kín với em“ước gì anh lấy được nàng”. Cũng thế, anh
phải vòng vo ‘trèo lên câu bưởi, buớc xuống
vuờn cà” rồi mới dám tỏ lòng hối tiếc ẩn dấu với em, vì đã bỏ lỡ cơ hội “em có chồng anh tiếc lắm thay”.. Đặc tính
thông cảm gián tiếp nói lên bản sắc tế nhị kín đáo của dân Việt trong cuộc sống bình thường, hơn là lời của
các bậc vua chúa, vốn thẳng thắn và chưa nhiều cách khẩu khí, tiêu biểu như lời
Đào Duy Từ đối đáp với Chúa Nguyễn Hoàng…
Ngoài ra, theo cảm nhận chung“Văn là nguời” (Le style c’est
l’homme) lời nói của Tây Phương thật hợp lý. Bà Huyện Thanh Quan thể hiện lòng
hoài Lê tha thiết trong những bài thơ rất đài các như Thăng Long Hoài Cổ. Nguyễn
Du gửi gấm tâm tình qua thân phận nàng Kiều
với cuộc đời trôi giạt trong những lời thơ rất não nùng thiết tha. Cao
Bá Quát bộc lộ cái ngông của một cuồng sĩ trong những câu thơ đầy khẩu khí: “Ba hồi trống dục đ.. cha kiếp, một nhát gươm
đưa bỏ mẹ đời”. Bùi Giáng cũng chuyên chở trong thơ hình ảnh con nguời nghệ
sĩ khinh đời hận thế, ngông cuồng..
Văn chương bình dân, lời lẽ chất
phác, giọng điệu bình dị, phân biệt với văn chương bác học, lời lẽ trau chuốt,
giọng điệu sang cả..Bài Nụ Tầm Xuân, xét về lời lẽ, giọng điệu và ý tuởng, phải
là văn chuơng dân gian, xuất phát từ những nguời sống với đồng ruộng, hoa lá, cây
cỏ, phản ảnh tâm lý chất phác và bản chất bình dị của người bình dân, nên không
thể gán ghép một cách guợng gạo cho các bậc vua chúa hiền tài như Đào Duy Từ hay Chúa Trịnh Tráng..Nếu ai chứng
minh đuợc rằng, Trịnh Tráng có những câu thơ ve vãn Đào Duy Từ và Đào Duy Từ có
dùng những câu thơ trên để trả lời Chúa
Trịnh, thì cũng rất có thể Chúa Trịnh và Đào Duy Từ đã mượn lời ca dao “nhặt được bên đuờng”để ví von, chứ không thật sự sáng tác những câu
thơ lục bát nhẹ nhàng và thấm thía đó đúng như nhận định của Phan Bảo Thư.. Rốt
cuộc, câu chuyện nụ tầm xuân và Đào Duy Từ chỉ là một giai thoại. Bàn về văn chương,
chúng ta nên cẩn trọng, phân biệt đâu l hiện thực và đâu là truyền thuyết. Giai
thoại văn chuơng cũng có gía trị của nó, nhưng giai thoại vẫn là giai thoại, không
thể lẫn lộn với văn chương hiện thực.
No comments:
Post a Comment