Tuesday, August 23, 2016

MẤT ĐẢNG HAY MẤT NƯỚC?

MẤT ĐẢNG HAY MẤT NƯỚC?

                                                                      Ngô Quốc Sĩ
                 Nguyễn Văn Linh sau Hội Nghị Thành Đô, đã phát biểu một câu xanh dờn mà Hà Sĩ Phu cho là ngu xuẫn “Đi với Trung Quốc thì  có thể mất nước; đi với Mỹ thì có thể mất Đảng, nhưng thà mất nước còn hơn mất đảng”. Hôm nay, truớc những diễn biến mới, dân Việt  đã nhắc lại câu nói của Nguyễn Văn Linh và tự hỏi nên chọn vế nào“Mất đảng hay mất nước?”



           Theo Nguyễn Hưng Quốc, hiển nhiên Trung Quốc có tham vọng đánh chiếm Việt Nam, có thể không phải bằng quân sự, mà bằng kinh tế và xã hội. Họ chỉ cần chiếm đảo và biển. Nhưng khi đã chiếm đảo và biển, cộng với những ảnh hưởng kinh tế lẫn xã hội, Trung Quốc cũng dễ dàng khống chế Việt Nam. Lúc ấy, họ muốn gì Việt Nam cũng đều tuân theo. Không cần tốn đạn và không phải đối diện với rất nhiều rủi ro của chiến tranh, họ vẫn có thể có một chư hầu và vẫn đạt được tất cả những gì họ muốn.
          Ngoài chủ trương làm chủ biển Đông, chiếm đạt ngư truờng, khai thác dầu khí và  làm chủ hải lộ kinh tế với con đuờng tơ lụa, những xâm thưc kinh tế hiện nay như  kế hoạch khai thác Bauxit Tây Nguyên,  phát triển khu công nghệ Vũng Áng, thuê rừng biên giới miền Bắc cũng như thiết lập khu tự trị Bình Dương mà người Việt không có quyền bén mảng tới, đều nằm trong kế hoạch xâm thực kinh tế và xã hội nói trên. Như thế “đại họa mất nuớc là chuyện hiển nhiên
          Vế thứ hai của mệnh đề chính trị là liệu nếu đi với Mỹ trong trận chiến đối đầu với Trung Quốc, đảng Cộng sản có mất quyền lãnh đạo độc tôn tại Việt Nam, nghĩa là “mất đảng” không?
          Cũng theo nhận định của TS Nguyễn Hưng Quốc, nếu đi với Mỹ thì CSVN vẫn “không sợ mất Đảng, bởi lẽ Mỹ thường xây dựng các chính sách ngoại giao của họ trên hai nền tảng chính: nhân quyền và tinh thần thực tiễn luận”.
          Trong các cuộc đối thoại với các nước khác, chính phủ Mỹ vẫn thường xem việc tôn trọng nhân quyền như một trong những điều kiện đầu tiên để nhận được viện trợ cũng như để trở thành đồng minh của Mỹ. Điều này có ba lý do chính.
          Thứ nhất, người ta tin là để trở thành bạn, cả hai bên phải chia sẻ với nhau một số bảng giá trị chung. Trong số các bảng giá trị ấy, nhân quyền được xem là một giá trị có tính phổ quát nhất, được nhiều người tin tưởng và ủng hộ nhất.
          Thứ hai, nền chính trị của quốc gia chỉ thực sự bền vững khi những người cầm quyền biết tôn trọng nhân quyền, nghĩa là, với những mức độ khác nhau, được dân chủ hoá.
          Và thứ ba, ở Mỹ, không ai có quyền tuyệt đối. Ngay cả tổng thống Mỹ cũng chịu nhiều áp lực đến từ nhiều nguồn, trong đó, đáng kể nhất là ngành lập pháp, đảng đối lập, giới truyền thông, và sau cả ba, là dân chúng. Mà dân chúng Mỹ thì, theo truyền thống, vốn ưa chuộng tự do và đề cao tinh thần dân chủ, ở đó, các quyền làm người phải được tôn trọng. Dưới các áp lực ấy, dù muốn hay không, chính phủ Mỹ cũng xem nhân quyền là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc thiết lập các bang gia quốc tế.
           Nói chung, các chính trị gia ở Mỹ hiếm khi là những người sùng bái ý thức hệ. Người Mỹ, bắt chước câu châm ngôn của Lord Palmerston, một chính khách người Anh, thường nói: “Không có bạn vĩnh viễn, cũng không có kẻ thù vĩnh viễn. Chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh cửu.” Nói một cách vắn tắt: Họ chơi với bất cứ ai mang lại lợi ích cho nước Mỹ. Vì những lợi ích ấy, họ sẵn sàng nhân nhượng và hy sinh những đòi hỏi về nhân quyền và dân chủ.
          Điều này giải thích lý do tại sao trong quá khứ cũng như trong hiện tại, chính phủ Mỹ vẫn xem một số nhà độc tài là đồng minh thân cận. Họ từng ủng hộ các chính quyền quân phiệt ở Guatemala, Brazil, Nicaragua, Chile , Nam Triều Tiên, Indonesia , Tây Ban Nha, cũng như các chế độ độc tài ở Philippines , Pakistan,  Ai Cập,  Tunisia, v.v… Hiện nay, trong số các đồng minh gần gũi của Mỹ cũng không hiếm quốc gia vẫn còn nằm dưới các chế độ chuyên chế hà khắc, trong đó, tiêu biểu nhất là Saudi Arabia, Yemen, Oman, Equatorial Guinea và Turkmenistan.
          Việt Nam có thể được xem là ngoại lệ trong bang giao quốc tế của Mỹ không?
          Có thể. Nếu Trung Quốc xem việc chiếm cứ Biển Đông là một “lợi ích cốt lõi”, với Mỹ, Biển Đông cũng có một tầm quan trọng không kém. Đó là một trong những con đường hàng hải tấp nập nhất trên thế giới. Chiếm trọn Biển Đông, Trung Quốc không những khống chế được Việt Nam mà còn khống chế hầu hết các quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á, trong đó, có nhiều nước là đồng minh hoặc đối tác thương mại của Mỹ. Mất Biển Đông, vị thế siêu cường quốc của Mỹ bị ảnh hưởng nặng nề. Hơn nữa, về phương diện quân sự, Mỹ cũng có nguy cơ bị Trung Quốc uy hiếp. Bởi vậy, bằng mọi cách, chắc chắn Mỹ sẽ bảo vệ Biển Đông. Nhưng việc bảo vệ ấy chỉ có hiệu quả với hai điều kiện: Một, Việt Nam phải cương quyết chống lại âm mưu bành trướng của Trung Quốc và hai, chính quyền Việt Nam phải mạnh mẽ và sinh hoạt chính trị tại Việt Nam phải ổn định. Điều kiện thứ hai này là một thuận lợi cho Việt Nam: Mỹ sẽ không mưu tính thay đổi chế độ tại Việt Nam.
          Dĩ nhiên, Mỹ cũng sẽ vẫn lên tiếng và gây sức ép để Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền. Một mặt, đó là nguyên tắc ngoại giao họ thường theo đuổi. Mặt khác, để đáp ứng các đòi hỏi của các tổ chức nhân quyền và đặc biệt, của dân chúng Mỹ, trong đó, có nhiều người vẫn còn mang nặng những ký ức cay đắng về cuộc chiến đẫm máu và dai dẳng trước năm 1975. Những sức ép ấy, cuối cùng, tuy không làm thay đổi thể chế chịnh trị tại Việt Nam, nhưng ít nhất, chúng cũng làm cho Việt Nam được dân chủ hơn. Dù là thứ dân chủ có giới hạn.
          Riêng dân Việt, không thể ngồi chờ diễn biến hòa bình của Mỹ, bởi lẽ nếu chờ thì phải chờ đến bao giờ? Còn vũ khí nhân quyền tuy có tính cách thuyết phục, nhưng nhiều khi chỉ là xa xỉ phẩm  đối với CS. Thế nên  để giải cứu Việt Nam, con đường duy nhất là dứt khoát phế bỏ chế độ cộng sản, bởi lẽ  cộng sản đã gây hận thù qúa lớn đối với dân tộc Việt Nam và đúng như khẳng định của Yeltsin, “Cộng sản không thay đổi, chỉ có thể thay thế”.
          Cuộc cách mạng dân chủ của dân tộc Việt Nam là chuyện tất yếu phải xảy ra. Cuộc cách mạng đó có 3 mục tiêu rõ rệt. Một diệt nội thù là cộng sản Việt Nam. Hai là chống ngoại xâm, kẻ thù  truyền kiếp phương Bắc. Ba là xây dựng một nuớc Việt Nam thật sự tu do dân chủ và tiến bộ. Cuộc cách mạng đó đã khởi đầu, chờ ngày thành công..




No comments:

Post a Comment