Ý NIỆM TRỜI
TRONG VĂN HÓA VIỆT
NAM
Ngô Quốc Sĩ
Văn hóa Việt Nam là một tổng thể bao gồm
tư duy, niềm tin, lối sống, cảm thức và truyền thống của dân Việt liên hệ đến mọi
khía cạnh của cuộc sống. Trên có Trời, dưới có Đất và ngang hàng có Người.
Trời là một thực thể trùu tượng, như
thể một ý niệm hơn là một vật thể khác, với Đất có thể sờ bằng tay, đạp bằng chân
và Người có thể vuốt tóc, sờ tai, gãi lưng.. Nhưng trong văn hoá VN, Trời thường
đuợc nhân cách hóa, và đuợc hình dung bằng
những biểu tượng cụ thể.
Trời có hình dáng. Trời hình tròn nên đuợc
gọi là vòm Trời, cung xanh. Trong sự tích bánh chưng bánh dầy, bánh dầy hình tròn
tượng trưng cho Trời. Cũng thế khi nói “mẹ
tròn con vuông” là muốn ám chỉ “càn khôn” mẹ tròn là Trời kết hợp với con
vuông là Đất, như một kết hợp hài hòa..
Trời có nơi chốn. Trời ở trên cao, nên người dân thường ngửa mặt lên Trời cầu
khẩn “trời cao có thấu?”, “Trời cao Đất dày” hay “trên trời có đám mây xanh..’
Trời
có kích thước. “Trời rộng bao la”, “Trời mênh mông” “Trời xa thăm thẳm.”
Trời có thân thể
như có mắt: “Trời có mắt”. Trời chứng
giám. Trời có tai “Trời có
nghe không?”“ Kêu trời không
thấu!”. Trời có mặt: “Mặt Trời mọc, mặt
Trời lên cao, mặt Trời lặn”.… Trời có chân: Chân trời góc bể, Cỏ non xanh tận chân trời.. Trời có da: Da Trời ai nhuộm mà xanh ngắt.
Trời còn có lòng: “Thuận lòng trời, mười đời chẳng khó” Trời có tâm hồn biết cảm “Trời sầu bể thảm” “Trời buồn con nhện giăng mau”. Trời còn biết ghen, biết ghét “Trời xanh quen thói mà hồng đáng ghen”
Điều đáng nhấn mạnh là trong niềm tin dân gian, trời còn xuất
hiện như một ngôi vị: Thường
ngôi vị đó đuợc gọi là “Ông Trời”, Có
khi ngôi vị đó được gọi là Tạo Hóa, là Thượng Đế, Con Tạo hay Thiên Hoàng.
Trong văn chương
dân gian, như ca dao tục ngữ hay truyện cổ tích, niềm tin ông Trời như một ngôi
vị thật đậm nét dưới nhiều khuôn mặt:
Trời là đấng Tạo Hóa
Trời sinh trời dưỡng
Trời sinh
voi trời sinh cỏ
Trời là cha lành thi ân giáng
phúc
Lay Trời mưa
xuống
Lấy nuớc tôi uống
Lấy ruộng
tôi cày
Tháng năm
gặt hái vừa xong
Nhờ Trới một
mẫu năm nong thóc đầy..
Trời là thẩm phán công minh:
Đèn trời soi xét
Trời qủa
báo ăn cháo gãy răng
Ăn cơm gãy
đũa, xỉa răng gãy chày
Trời cho cơ hội thành công
Trời nào có phụ ai đâu
Hay làm
thì giàu có chí thì nên
Trời là nguyên nhân khổ đau
Trời hành cơn lụt mỗi năm
Trời ơi sinh giặc làm chi
Cho chồng tôi phải ra đi chiến truờng
Trời có khi bị coi là bất công
Trời sao Trời ở chẳng cân
Người ăn không hết người lần không
ra
Trời sao Trời ở chẳng công
Người ba bốn vợ người không vợ nào
Trong các tuyện cổ tích như Bánh Chưng Bánh Dầy, Công Chúa Tiên Dung, Phù Đỗng Thiên Vuơng, đều có hình ảnh của Trời như một ngôi vị. Bánh chưng
vuông tượng trưng cho Đất, còn bánh dầy tròn tượng trưng cho Trời. Kết hợp bánh chưng vuông với bánh dầy tròn
trong ngày Tết là một kết hợp Trời Đất hài
hòa. Cũng thế, Công Chúa Tiên Dung gặp
anh chàng chài lưới nghèo mạt rệp đến nỗi
không có khố để mang là do duyên Trời sắp
xếp. Còn Phù Đỗng Thiên Vuơng là người nhà Trời, từ Trời xuống giúp dân Việt đánh
đuổi giặc Ân. Giẹp xong giặc, Phù Đỗng lại cởi giáp, cưỡi ngựa bay về Trời..
Trong Văn
chương bác học, Trời như một ngôi vị cũng rất hiển nhiên.Trần Cao Vân trong bài
Vịnh Tam Tài đã quan niệm Trời Đất sinh ra người, nhưng Trời Đất và Nguời cùng bản thể, và người ngang hàng
với Trời Đất:
Trời đất sinh
ta có ý không
Chưa sinh
trời đất có ta trong
Ta cùng trời
đất ba ngôi sánh
Trời đất in
ta một chữ đồng
Đất nứt ta ra
trời chuyển động
Ta thay trời
mở đất mênh mông
Trời che đất
chở ta thong thả
Trời đất ta
đầy đủ hóa công
Nguyễn Du đã quan niệm số phận con
người do Trời định, suớng khổ, may rủi đều do Trời:
Ngẫm hay muôn sự tại
Trời
Trời kia đã bắt làm
người có thân
Bắt phong trần phải
phong trần
Cho thanh cao mới
đuợc phần thanh cao
Nhưng theo Nguyễn Du, Trời định phận,
chứ không định mệnh. Bởi lẽ, con người có thể cải biến phận mình bằng thiện tâm.
Chính cái Tâm đã thắng định mệnh:
Đã
mang lấy nghiêp vào thân
Cũng đừng trách lẫn
Trời gần Trời xa
Thiện căn ở tại
lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng
ba chữ tài
Có Trời mà cũng có
ta
Tu là cõi phúc tình
là dây oan
Đặng Trần Côn-Đoàn Thị Điểm thì coi Trời là nguyên nhân gây tai họa
Thuở Trời Đất nổi cơn gió bụi
Khách mà hồng nhiều
nhỗi truân chiên
Xanh kia thăm thẳm
từng trên
Vì ai gậy dựng cho
nên nỗi này?
Nguyễn Công Trứ đã đem chí trai để thách
đố mệnh Trời:
Đố kỵ sá chi Con Tạo
Nợ tang bồng quyết
trả cho xong..
Nguyển Bỉnh Khiêm đã dành cho Trời quyền
sắp đặt mọi sự trong đời nguời:
Trời sinh Trời ắt đã dành phần
Tu hãy cho bền dạ
có nhân
Khó chớ oán thân
thân mới nhẹ
Giàu mà yêu chúng
chúng chẳng gần
Lê Văn Duyệt khuyên con nguời ăn ở
theo ý Trời “Vì Tạo Hóa là đức háo
sanh, trái ngược với tiêu diệt. Ai muốn được Tạo Hóa bảo tồn thương yêu phù
trợ mình thì hãy cố gắng ăn ở xử thế và làm theo ý của Đấng Tạo Hóa. Mọi việc
làm luôn luôn cân nhắc và xét nét xem coi việc ấy có tổn đức và trái đạo lý thì
tránh, còn thuận đạo lý thì làm”
Nguyễn Trãi-Lê Lợi trong
Bình Ngô Đại cáo đã cám ơn Trời phù trợ người
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng
thầm phù trợ;
Lý Thuờng Kiệt
trong Tuyên Ngôn Độc Lập, cũng coi Trời
định phận người
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận
tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ
lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan
thủ bại hư
Trong thơ văn
tiền chiến cũng như hiện đại, Trời cũng
xuất hiện như một ngôi vị với những nét đầy tôn kính với lòng thành khẩn:
Hàn Mặc Tử đã
chấp tay cầu nguyện với Trời một cách kính cẩn
Ta chấp hai tay lại qùy
hoàn hảo
Ngửa trông cao cầu
nguyện trắng không gian
Để vừa dâng vừa hiệp
bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu
sang lên Thượng Đế
Chế Lan Viên cũng xin Trời trả ông về Chiêm Quốc là nơi chon nhau cắt
rốn của mình:
Tạo Hóa hỡi! hãy trả tôi về
Chiêm quốc
Hãy đem tôi xa lánh
cõi trần gian
Muôn cảnh đời chỉ
làm tôi chướng mắt
Muôn vui tươi nhắc
mãi vẻ điêu tàn
Huy Cận chỉ than trách Trời nhẹ nhàng vì nỗi đau trong thân xác:
Hỡi thượng Đế
Người nhìn xem người
đã cho thân thể
Bình thịt xuơng để
chứa đựng linh hồn
Thơ hiện đại với Nguyễn Chí Thiện, Hà Thượng Nhân, Nguyễn
Tất Nhiên, cũng rất đậm nét Thượng Đế như một ngôi vị, có thể tin tưởng và phó
thác:
Nguyễn Chí Thiện
tin vào sự an bài của Trời:
Ta vững tin, tất Trời
kia chẳng phụ
Công đức vun bồi
nuôi dưỡng thân ta
Ta chỉ ngẩng đầu cấu xin Thượng Đế
Đừng để linh đan
qúa lửa đốt thành than
Bạc cả tóc dưới đáy
vạc dầu
Ta chỉ ngẩng đầu cầu
xin Thuợng Đế
Hà Thượng Nhân gọi Trời là cha nhân
lành:
Nhân danh Cha đem lại công bình
Dựng lại nuớc Trời
ngàn đời cao đẹp
Giữa gia đình tin
yêu
Lời nói Cha làm sống
lại tình yêu
Làm sống lại những
tâm hồn bé mọn.
Ta là Chúa tể càn khôn
Cho nên ta sống lại
Ôi lời nói nhu mì
và khả ái
Ta sống lại để làm
gì?
Ta sống lại để trao
ban cho người sự sống.
Nguyễn Tất Nhiên xin Trời soi thấu niềm
u uẩn trong tâm hồn:
Đôi mắt nào của Chúa ở trần gian
Có soi thấu tận
cùng miền u uẩn
Đôi mắt nào sáng
như trời quang đảng
Hãy ân cần chuyên
chở lụy phiền tôi
Đôi mắt nào của
Chúa ở trần gian
Hãy phán đoán tâm hồn tôi thánh thiện
Đôi mắt nào tuyệt với
linh hiển
Hãy tò mò thêm chút
nữa, tình ôi!
Đôi mắt nào Chúa ở
lòng tôi
Nhỏ ơi, ơi nhỏ và
nhỏ ơi!
Trong Truyền thống dân tộc, dân Việt có Đạo thờ Trời. Người Vìệt, không phân biệt tôn giáo,
đều có đạo ông bà và đạo thờ trời. Gặp chuyện không may xảy đến dân Việt
thường kêu Trời “Trời ơi”. Trời
ơi là Trời”. Rồi khi được may mắn thành
đạt, dân Việt cũng cám ơn Trời Đất.
Mỗi năm Tết đến, sau khi cùng giao thừa, cha mẹ chúng ta thuờng thắp nhang,
vái bốn phương để tạ ơn Trời Đất. Thế là hiển nhiên, dân tộc Việt Nam có truyền thống hữu thần.Chỉ khi Cộng Sản về nhuộm đỏ dân tộc, mới có một số bị nhiễm độc vô thần của chù thuyết Mac Lê
Trên bình diện quốc gia, dân Việt có Lễ
Tế Nam Giao. Hằng năm, nhàVua là thiên tử, cũng là cha mẹ của dân, đã đến đàn
Nam Giao tế lễ để thể hiện long tôn kính Trời Đất. Đền Nam Giao tại Huế, gần núi Ngư Bình, có
hai bệ. Bệ tròn tuơng trưng cho Trời, vì nguời Việt tin Trời hình tròn. Bệ vuông
tượng trưng cho Đất, vì người Việt tin
trái đất vuông. Còn Vua thay dân tế Trời Đất, tỏ lòng tôn kính và cầu cho quốc thái dân
an
Ngoài ra, Ý niệm Thiên mệnh cũng thể
hiện vai trò của Trời trong cuộc sống con người. Thật vậy, Thiên Mệnh khác với
Định Mệnh. Theo thuyết Định mệnh, số phận con người đã định sẵn, không thể thay
đổi, và con nguời hoàn toàn mất tự do”
Cái
quay búng sẵn trên Trời
Mờ
mờ nhân ảnh như nguời đi đêm
Cũng
liều nhằm mắt đưa chân
Mà xem Con Tạo xoay vần nơi nao
Còn
Thiên mệnh trái lại, là sự hướng dẫn khôn ngoan, không bó buộc, con người có thể
nương theo mà sống như thể nước giúp cá bơi lội, không khí giúp chim bay cao. Với
sự hướng dẫn và nâng đỡ của Thiên Mệnh, con người không những không mất tự do,
mà còn thể cải biến mệnh trời:
Có Trời mà cũng có ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài
Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều
Thế nên, con nguời phải sáng suốt nhận
ra ý Trời bằng lý trí và trực cảm, sống hài hòa an thái với tâm tình phó thác
và tin tưởng..
Con Người, đầu đội Trời, chân đạp
Đất là hình ảnh Thiên-Địa-Nhân của Tam Tài thật toàn hảo!
No comments:
Post a Comment