VĨNH
ĐỊNH-VĂN NGUYÊN DƯỠNG
DẤU
TÍCH MÙA CHINH CHIẾN
Ngô
Quốc Sĩ
Vĩnh Định tên
thật là Nguyễn Văn Dưỡng, cũng được nhiều người biết tới với bút hiệu Văn Nguyên
Dưỡng, sinh quán tại Bạc Liêu, theo học khóa 5 Sĩ Quan
Trừ Bị Thủ Đức, du học Hoa K ỳ và đậu cao học môn chính trị về Ngoại giao
& Giao tế Quốc tế. Ông đã tham dự trận chiến An Lộc mùa Hè 1972. Ông là Sĩ quan tham mưu Phòng 2, Bộ Tổng
Tham Mưu QLVNCH, cấp bậc Trung tá. Ông ở tù cộng sản năm 1975 và ra tù năm 1988. Năm 1991, sang định cư Hoa Kỳ..
Ông đã cho xuất bản nhiều tác phẩm
bằng Việt ngữ và Anh Ngữ như Vùng Đêm Sương Mù , Trường Ca Trên Bãi Chiến ,
Lessons from the Vietnam War, Inside An Lộc: The Battle to Save Saigon …
Là một sĩ quan tham mưu, từng tham dư cuộc
chiến An Lộc, Trung tá Nguyễn Văn Dưỡng đã thấm thía vết thương chiến tranh sâu
đậm hơn ai hết. Thơ Vĩnh Định vì thế, đã chuyên chở nhiều vết tích chiến tranh
Việt Nam của thời sử đen do búa liềm và cờ máu tạo phản.
Thơ Vĩnh Định đã ghi lại những nét bi
thảm của cuộc chiến Việt Nam. Đây không phải là “cuộc nội chiến” như tuyên truyền cộng sản hay luận điệu của một số
người Việt ngây thơ. Việt Nam được sử dụng làm bãi chiến trường của cuộc chiến ý
thức hệ, mà miền Nam được coi là tiền đồn của thế giới tự do nhằm ngăn làn sóng
đỏ khỏi tràn xuống Đông Nam Á. Hình ảnh chiến tranh đã được Vĩnh Định vẽ lại:
Thăm thẳm chiến trường xa chợt biến,
Nghìn
trùng nhớ mãi mớ vô chung..
Mắt biếc em cười trong khói súng,
Dừng chân buông một tiếng thơ thương
Cuộc chiến bi đát đó đã phí tổn
bao xương máu dân Việt, mà tội ác phải đổ lên đầu Hồ Chí Minh là tên cộng sản
quốc tế, tay sai của Nga Tàu. Bao nhiêu trai trẻ đã hy sinh, bao nhiêu nước mắt
em gái hậu phương đã nhỏ xuống:
Uống mãi dòng trăng sao chẳng cạn,
Vốc từng đêm mộng vẫn chưa vơi...
Chiến quốc người xưa quên chẳng hỏi
Sa trường ai có nhớ cố nhân
Vốc từng đêm mộng vẫn chưa vơi...
Chiến quốc người xưa quên chẳng hỏi
Sa trường ai có nhớ cố nhân
Em
trắng, em trong, em dáng ngọc,
Não
nùng em khóc biệt quan san.
Thế rồi cuộc chiến tranh xâm lược của
cộng sản Bắc Việt dưới chiêu bài giải phóng đã kết thúc với cái chết tức tưởi của
miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 75. Vịnh Định đã ghi lại những nét tang thương của ngày lịch sử bi đát đó:
Tôi đi hoang giữa hàng súng gục đầu
Cúi mặt xuống, nghe chân mình nhẹ bổng
Đôi giày saut bét gót tự bao
giờ?
Chiếc áo trận xác xơ ngoài pháo lũy,
Cờ quân hiệu tả tơi trên chiến
địa…
Ngẩng
đầu lên bốn cõi thật hoang vu !
Bi đát nhất là người chiến si Cộng
Hòa, trong đó có Vĩnh Điện đã phải buông súng, nghẹn ngào nhìn đất mẹ rơi vào
tay giăc:
Tấm áo mẹ còn tinh vệt sữa
Mảnh đất quê binh lửa in hằn
Vết thù còn rõ dấu chân
Còn vào gió cát phong trần với
ai
Rồi tác giả đành gạt nước mắt cùng dân Việt ra
đi, bỏ lại quê hương sau lưng mà hồn tê tái, tim rướm máu:
Kẻ đi bỏ xóm, bỏ làng,
Tôi đi, bỏ cả nắng vàng,
trăng thanh,
bỏ
câu hò tình tứ, bỏ cả tuổi hoa niên,
Đi, đi, cuối biển đầu ghềnh
Vai mang chinh chiến bồng bềnh
nơi nơi...
Vai mang chinh chiến ra đi, nhưng lòng
vẫn gắn chặt với quê hương khổ đau. Người liều chết lao vào biển cả tìm tư do,
người ở lại rên xiết trong gông cùm qủy đỏ:
Ví dù chẳng biết vì sao
Người ra biển lớn người vào rừng sâu..
Trắng
đen phù thế cơ cầu
Giấc xưa mộng ảo chốc sầu còn vương,
Em ra áo rũ tà dương
Anh về bóng lạc đêm trường biển
dâu
Thương người ở bị đày đọa, thương nguời
đi trong tủi hận lưu vong, Vĩnh Định đã phải thốt lên những lời thơ cuồng nộ của
người tráng sĩ bất đắc chí, mài kiếm dưới trăng, chờ tiếng trống xuất quân nổi
lên tiêu diệt nội thù:
Ta nghe chất ngất trường thiên hận
Đánh
đĩ tang bồng cái súng gươm.
Tóc trắng buông chùng đau gối
lạnh
Não nề đêm tẻ thoáng hương
xưa.
Hình như sông núi đang mê ngủ,
Trường thành trống điểm có
hay không?!.
Rồi cuồng nộ cũng lắng xuống, trả nhà
thơ về với những rung cảm nhẹ nhàng xót xa:
Hỏi thôi còn
có bao giờ...
Nàng mang tấc chỉ vá
cờ năm xưa?
Bụi mù khuất lấp
bóng mờ
Lá vàng rơi rụng bên bờ thâm hoang...
Rồi vận nước điêu linh đã đưa tác
giả đến bờ nhân thế, hóa thân thành triết nhân, cảm nhận ý nghĩa cuộc đời là bể
khổ:
Có hay không có trong hồn
Mang ra mà đếm đủ ngần ấy đau
Không đâu mà sẵn nỗi sầu
Cho sương muối tóc ngả màu thời gian
Tác giả đã nhận ra chân lý cuộc đời chỉ
là vũng lầy tang thương mục nát. Trần thế chỉ là một cõi hồng hoang, và con người
bước đi như lên dốc xuống dốc đồi sương, vác đá xây huyễn mộng:
Trong hồng hoang có hồng hoang
Cõi ta mục nát cõi nàng tang
thương
Trên đồi sương, dưới dốc
sương
Dấu mờ xóa mất đoạn đường nầy
thôi!
Điều an ủi là trong cuồng nộ và tư duy triết lý, tác giả đã
nhận thức được một chân lý mới. Đó là ý nghĩa cuộc đời phải do con người tạo dựng.
Trong hồng hoang sương khói, con nguời có thể tìm thấy lẽ sống như ánh tinh cầu
chiếu rạng từ lịch sử, từ hiện thực đầy hy vọng phục sinh của đất nước:
Trên dòng sông chảy
Trên dòng sông đầy,
Lớp sóng này tàn, đợt khác
kéo lên thay.
Ba nhìn con hiện tại
Như giọt nước mong manh,
Mai kết thành dòng, mốt kéo
ra đại dương.
Những lớp sóng tiếp nối trên dòng
sông từ lòng mẹ Việt Nam chính là những đợt sóng phục sinh, biến dòng sông mẹ
thành dòng sống Việt, nuôi dưỡng trăm
con thành Phù Đỗng và Việt điểu:
Như lớp lớp sóng từ xưa muôn triều đại
Từ lòng đất sâu chảy về dãy
Trường Sơn,
Tạo
phù sa nằm ngủ trên chín khúc Cửu Long,
Tạo
tổ quốc trên bờ biển cả,
Tạo thành tên bằng tiếng Việt
Nam,
Tạo giống nòi
Lịch sử bốn nghìn năm da vàng
máu đỏ.
Còn biết nói gì hơn là im lặng để
cùng với Vĩnh Định-Văn Nguyên Dưỡng nghe sóng nước Cửu Long vỗ về như khúc thiên
ca máu đỏ Lạc Hồng..
No comments:
Post a Comment