VŨ
HOÀNG CHƯƠNG
THƠ
SAY CHAN CHỨA SẦU CHINH CHIẾN
Ngô Quốc Sĩ
Vũ Hoàng Chương được biết tới như một đại thi hào trên văn đàn
Việt Nam từ miền Bắc trước 54 cũng như miền Nam sau 54. Ông sinh tại Nam Định, nguyên
quán tại Hưng Yên, học tiểu học tại Nam Định rồi trung học tại Hà Nội và đi dạy tại Hải Phòng.
Tại đây, ông không ngừng sáng tác thơ và kịch. Sau
đó về Hà Nội lập "Ban kịch Hà Nội" với Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Năm 1944, ông thành
hôn với Đinh Thục Oanh, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng.
Năm 1954, Vũ Hoàng Chương di cư vào Nam, tiếp tục dạy học và sáng
tác ở Sài Gòn. Năm 1959 ông đoạt "Giải Văn học Nghệ thuật
Toàn quốc với tập thơ Hoa
đăng.
Năm 1972 ông đoạt giải thưởng văn chương toàn quốc lần thứ hai.
Năm 1976, bị cộng
sản bắt giam tại khám Chí Hòa.
Bệnh nặng đưa về nhà được 5 ngày thì ông mất ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Sài Gòn.
Ông để lại cho đời nhiều tác phẩm giá trị
như Thơ Say, Mây, Thơ Lửa, Rừng Phong, Ta Đợi Em Từ 30 năm, Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai..
Cần
nói ngay là người ta thường đề cập tới Vũ Hoàng Chương như một nhà thơ say, say
men và say tình, ít ai chia sẻ tâm tình yêu nước thương nòi của ông. Thực ra, đàng
sau cái say cuồng đó, ẩn dấu một tâm trạng yêu nước và yêu người thiết tha.
Nói
về thơ say của họ Vũ thì không còn lời nào để diễn tả. Nếu Tản Đà được nhắc tới
như một nhà thơ say với những câu thơ tuyệt vời “Đất say đất cũng lăn quay, Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười” thì Vũ
Hoàng Chương còn cuồng loạn hơn, say sướt mướt, say rã rời, say ngả nghiêng:
Say đi em
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng điên
rồ xác thịt…
Say không còn biết chi đời
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu chưa sụp
đổ
Nhưng
đàng sau cái say ngả nghiêng điên rồ đó, thấp thoáng ẩn dấu một tâm trạng yêu
nước, yêu đời và yêu người thiết tha. Thật vậy, nhà thơ họ Vũ đã từng ấp ủ mộng
làm trai với chí tang bồng, nhưng hoàn cảnh không cho phép tác giả thực hiện mộng
lớn, đành phải ngậm ngùi than thở như kẻ lạc loài, đầu thai lầm thế kỷ, như con
thuyền bạt gió:
Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống
nói khinh
Bể vô tận sá gì phương hướng
nữa
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy
lênh đênh
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế
kỷ
Một đôi nguời u uất nỗi trơ
vơ
Đời kiêu bạc không dung hồn
giản dị
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến
hoang sơ
Với tâm hồn giản dị, nhà thơ rất chán ghét chiến tranh.Trong
biến cố Mậu Thân, với những hố hầm chôn sống bao dân lành, Vũ Hoàng Chương đã trải lòng thương cảm với các nạn nhân từ quan đến dân, chết thảm do mộng xâm lăng ngông
cuồng của miền Bắc. Ông tự hỏi sao người ta chưa chịu rút quân về?
Bao
nhiêu chàng trai ra đi
Bấy
nhiêu cô gái đến thì hỏi xuân
Hết
quan, tàn mấy miền dân
Cớ
sao còn chửa kéo quân vơ về?
Sau năm 75, chứng kiến cuộc đổi đời bi thảm, tự
do rẫy chết, ý thức về cuộc chiến của nhà thơ càng rõ né hơn. Qua bài thơ “Đọc lại Người Xưa: Trần Đào” sáng tác
khi họ Vũ bị cộng sản bắt giam tại khám Chí Hoà, bài thơ dấu kín nhưng được Hoàng
Hương Trang phổ biến sau này, người ta sẽ hiểu thấu nỗi lòng u uất của thi sĩ
trước thảm cảnh chiến tranh, gây tang tóc cho kiếp người nói chung và dân Việt
nói riêng.
Theo
Trần Từ Mai, Vũ Hoàng Chương đã mượn ý Trần Đào đời Đường để nói lên thảm cảnh cuộc
chiến Việt Nam làm cho dân Việt cà 2 miền đếu khốn khổ, tiêu biểu là chàng phải
rời tay nàng lên đường chinh chiến, nàng mòn mỏi đợi chờ, nhưng cuối cùng chỉ nhận được hung tín:
Chàng về trong mộng đêm đêm
Trẻ
như măng, thịt da mềm như tơ
Ngày
qua nàng vẫn trông chờ
Tháng,
rồi năm, vẫn giấc mơ liền cành
Biết
đâu chàng đã trở thành
Xương
tàn một nắm vô danh bên trời
Thế là hết! Người trai đã nằm xuống trong
lửa đạn, làm bờ sông bãi cát phải bồi hồi.
Đất mẹ biến thành đất chết, khô dòng lệ, trắng vành tang, như thể vết chém,
nét sầu đến xương:
Bờ
sông bãi cát bồi hồi
Đã
khô rồi, đã trắng rồi, biết đâu
Chữ
đồng tạc lấy cho sâu
Ai
hay lẻ một nét sầu đến xương
Tuy nhà thơ
không nói trắng ra, nhưng ai cũng biết, nguyên nhân gây thảm họa lịch sử đó
là cuộc xâm lăng của kẻ thù phương Bắc với lời thề “sinh Bắc tử Nam” của tuổi trẻ miền Bắc bị nhồi sọ và đầu độc bởi
tuyên truyền cộng sản
Là
Nam Bắc, là âm dương
Lệ
hay máu rỏ con đường nào đây.
Thật oái oăm! Con đường
được mệnh danh là con đường giải phóng, tiêu biểu là Đường mòn Hồ Chí Minh xuyên
qua Trường Sơn lại là con đường lệ máu trải dài từ Bắc vào Nam, con đường sinh
tử, con đường âm dương. Bao chàng trai trẻ đã bị vùi lấp dưới xác lá Trường Sơn
với lời thề “sinh Bắc tử Nam”! Rồi
bao nhiêu tinh hoa đã ngã gục dưới chiêu bài giải phóng! Dương Thu Hương khi
theo “đoàn quân giải phóng” đã ngồi
phịch xuống vỉa hè khóc nức nở vì thấy mình bị lừa. Còn dân miền Bắc chỉ ngày đêm
trông chờ quân miền Nam ra giải phóng. Thế mà thật nghịch lý, miền Nam bị bức tử,
tự do rẫy chết, dân Việt tan tác, làm cho Vũ Hoàng Chương phải thốt lên:
Thương ơi,
xương trắng bờ Vô Định
Nay
vẫn phòng ai giữa giấc mơ.
Sông
Vô Định, đống xương khô
Đêm
đêm vẫn dệt giấc mơ khuê phòng
Điều đáng nói là dù thấy dân Việt bị bức tử, tự
do rẫy chết, Vũ Hoàng Chương cũng như toàn thể dân Việt đã không tuyệt vọng, trái
lại vẫn hy vọng một ngày mai tươi sáng
trên quê hương sạch bóng thù, như thể giấc mơ của nàng khi chàng đã ra đi “Đêm đêm vẫn dệt giấc mơ khuê phòng..”
No comments:
Post a Comment