VIÊN
LINH
MUÔN
NẺO ĐƯỜNG TRẦN
Ngô Quốc Sĩ
Viên Linh là nhà thơ và nhà báo, đã chủ trương tạp
chí “Thời Tập” vào những năm trước năm 1975 và tạp chí “Khởi Hành” “nối dài” từ
trước 1975.
Ông đã từng là Chủ Tịch văn Bút Việt Nam Hải Ngoại với chủ trương
duy trì nền văn học nghệ thuật miền Nam việt Nam, coi đó chính là dòng văn học
nghệ thuật của dân tộc, mà người Việt hải
ngoại sau 30 Tháng Tư, 1975, còn duy trì và phát huy được.
Thơ Viên Linh trải rộng qua nhiều lãnh
vực, hầu như bao quát cả mọi ngõ ngách cuộc sống như chính ông đã xác nhận:
Thơ của tôi
tịch mịch đền đài
Bát
ngát tuyết đông sang
Biệt
mù thu phong hỏa.
U
huyền em cặp mắt đêm sâu
Lòng
nhiệt đới lời ngọt ngào thổ ngữ
Từ tâm thức lưu vong đến mối quan tâm về tuổi trẻ và tương
lai, ông đã đem Thân-Tâm-Ý-Lời để chuyên chở tiếng khóc câu cười của nhân thế
qua văn chương, cuộc đời và hạnh phúc:
Thơ đắm
chìm kẻ sĩ lưu vong.
Thơ
yêu đương ngược đường tuổi trẻ.
Thơ
triều các phế hưng biển dâu quá khứ.
Thơ
tro tàn trùng phục ngày mai…
Ba
sinh hương lửa có gần
Gửi
em đầy đủ Thân Tâm Ý Lời.
Gửi
em tiếng khóc câu cười
Văn
Chương, Hạnh Phúc, Cuộc Đời..
Trên các nẻo đường trần, trước tiên
phải nói tới đường Tình. Viên Linh đã trải lên đường tình những viên sỏi, những
bông hoa thật đẹp, như thể những nụ thơm hạnh phúc chẳng cần biết hãy còn hay
đã mất:
Yêu em, yêu những cái còn
Yêu
luôn cái đã hao mòn từ xưa.
Yêu
từ thời đại hoang sơ
Yêu
sang man dại, yêu chờ u mê
Yêu
đi chẳng ngại yêu về
Yêu
em như thể lời thề ma vương
Tiếp đó, thơ Viên Linh cũng chuyên chở những cảm nghiệm
mang tính triết lý về cuộc đời. Thường khi đêm về, nhà thơ đã vắt tay lên trán mà tra vấn về nghĩ về ý
nghĩa đời người và người đời, rồi chỉ thấy những bóng hình mờ ảo. Nếu Ôn Như Hầu đã cảm nghiệm
“ Cái quay búng sẵn trên trời, Mờ mờ nhân
ảnh như người đi đêm” thì Viên Linh cũng thấy cuộc đời chỉ là cõi u minh, vô
thường sắc không theo triết lý nhà Phật:
Trên ba mươi tuổi ù lỳ
Đêm
về kéo cửa ngày đi kiếm mình
Cảnh
đời, một cõi u minh
Cảnh
tôi thấp thoáng bóng hình những ai?
Trong cõi u minh, nhà thơ chỉ thấy những oan
khiên chồng chất, đói nghèo, chủ nghĩa, chiến tranh, đang nhận chìm con người
xuống vực thẳm:
Thế kỷ ta đang sống
Chập
trùng nhiều khúc quanh
Khu
vườn đời đây đó
Càng
ngày càng lan nhanh.
Mầm
của mùa đói kém
Cây
của mùa đao binh
Mầm
của mùa chủ nghĩa
Cây
của mùa điêu linh.
Từ
đường tình qua đường đời, Viên Linh đã buớc vào những nẻo đường đất nước. Mang
tâm trạng một
kẻ lưu vong nhìn về tổ quốc, nhà
thơ đã giật mình nhớ tới Sài Gòn ngà ngọc, nay phải nhục nhã mang tên qủy dữ:
Hôm nay năm tận, Sài Gòn
Tôi
nghe khiếp hãi tâm hồn già nua
Giật
mình con quỉ ban trưa
Tiếc
mùa hoan lạc hái chưa đủ hời.
Chạy trốn qủy dữ ,thuyền nhân Việt Nam rời bỏ quê hương tìm một
phần sống trong 99 phần chết, làm cho nhà thơ nghẹn ngào:
Hồn vẫn ở la đà Nam Hải
Hồn
còn trôi mê mải ngoài khơi
Hồn
còn tầm tã mưa rơi
Tháng
Tư máu chảy một trời sương tan.
Sau
tháng Tư đen,Viên Linh chỉ còn thấy bóng dáng quê hương chìm khuất trong mưa sương.
Trần Dần đã nhìn thấy quê hương mờ khuất “Tôi
buớc đi, không thấy phố thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”thì Viên
Linh cũng chỉ nhìn thấy quê hương rỉ máu, qua làn mưa rơi trong lòng:
Ta từ
thân thế lưu vong
Chiếc
hồn phiêu dạt tấm lòng mưa sương.
Cảm
ơn trời đất muôn phương
Ta
còn một mảnh Quê Hương điêu tàn
Tất
cả đã thay đổi. Sài Gòn mất tên. Người cũng thay lòng đổi dạ. Tình nghĩa phai
nhạt, người ta nhìn nhau bằng con mắt cú vọ:
Nhận tin em
một năm rồi
Thành
xưa đã đổi con người đã thay
Cơn
mơ chia biệt tháng ngày
Vẫn
rơi tầm tã lòng này đêm đêm.
Hận ngất trời! Tác giả muốn ném tủi hận vào hư không!
Mưa đưa tôi
lại Sài gòn
Trán
căng nhiệt đới hồn còn Đông Dương
Gặp
em trở lại Lầu Chuông
Dang
tay nện xuống Hư Không một chày.
Nện vào hư không thì hận còn nguyên, cuộc
đời còn nghiệt ngã vì bọn ác thú còn nhỡn nhơ trên quê hương?
Cảm ơn câu hỏi
bạn hiền
Hỏi
ta Đất Nước mấy miền thổ ngơi?
Bạn
hời bạn hỡi bạn ơi
Ba
năm cóc chết, con người mấy năm?
Thôi thì tạm quên những nẻo đường tình, đường đời,
và những nẻo đường đất nước, để tìm lại chính mình. Nhưng trở về tìm lại chính
mình, nhà thơ thấy càng thương cho mình, như thể cây chết đứng giữa lòng nhân thế
đảo điên:
Thấy
trăng mọc lúc bình minh
Thấy
người lưu xứ lênh đênh Quê Nhà
Thấy
tôi đập kính soi hoa
Trên
cây nhân thế la đà trái đen.
Lúc này
hình đất tượng cây
Đời
ta như nước chảy đầy bãi xa
Chiều
rồi lòng mở không ra
Mênh
mông trong ngực mùa hoa hải tần.
Thương cho vận nước, thương cho
phận mình, nhà thơ đã cảm thấy chìm ngập trong bãi sầu, khi dương gian lún dần
xuống vực thẳm:
Nước xa
cuồn cuộn ra khơi
Sâu
trong tâm thể có đôi giọt gần
Bãi
sầu trời ngập đến chân
Dương
gian la lún nửa thân còn gì.
Điểm
đáng mừng là qua những vần thơ ai oán trên đường tình, đường trần và phận mình,
đã lóe lên một tia sáng phục sinh. Viên Linh từ vực sâu đã chỗi dậy, đứng lên,
hô vang tiếng gọi đáp lời sông núi:
Những ai vào
kiếp phù sinh
Hóa
thân hồ hải làm binh giặc trời
Khi
nào hết quỉ ngoài khơi
Ta
vào lục địa ta hồi cố hương.
Cùng
nhau dựng lại nguồn
Chẻ
tre đẵn gỗ vạch mương xây đình.
Ông
Nghè về lại trong dinh
Tướng
quân giữ ải thư sinh dưới đèn.
Thế
là dân Việt buớc vào một vận hội mới, xây lại ngôi nhà Việt Nam đã đã đổ nát
trong thời sử đen:
Việt Nam dựng lại sơn hà
Móng rồng năm lượt Quê Nhà phục hưng.
Có
tướng quân giữ ải, có ông nghè về dinh, có thư sinh dưới đèn.. Đó là quê hương phục hưng đã sạch bóng thù trong giặc ngoài..
No comments:
Post a Comment