VỀ BỘ PHIM VIETNAM
WAR
Nguyễn Tiến Hưng
Nguyễn Tiến Hưng
Giai đoạn khi Đồng Minh nhảy vào
Năm 1958, từ Đại Học Virginia (UVA ở Charlottesville) chúng tôi đã theo dõi cuộc
chiến Việt Nam từ lúc khởi sự (thời TT Eisenhower) tới lúc Mỹ đưa quân vào (thời
Kennedy) rồi leo thang thật nhanh (thời TT Johnson). Chúng tôi cũng đã xem (và
tham gia) cuốn phim Cuộc Chiến Mười Ngàn Ngày (The Ten Thousand Day War) của
Maclear được chiếu năm 1980. Bộ phim 26 giờ còn dài hơn phim 18 giờ của Ken
Burns và Lynn Novick (B & N).
Với những kinh nghiệm cá nhân và sưu tầm nhiều năm, nhất là từ tài liệu The
Pentagon Papers dài 7,000 trang, được giải mật ngày 13 Tháng Sáu 2011, chúng
tôi đã viết về giai đoạn Mỹ mang quân vào Việt Nam trong cuốn sách Khi Đồng
Minh Nhảy Vào (KĐMNV) với gần 900 trang gồm nhiều tài liệu gốc, xuất bản năm
2016.
Năm phần đầu bộ phim của Ken Burns và Lynn Novick (B & N) nói về cùng một
thời điểm như cuốn KĐMNV (từ thập niên 40 tới cuối 1967). Cách bố cục cũng giống,
nhưng với những tựa đề có kịch tính. Thí dự như tựa đề cho Tập 2: Dòng Sông
Styx (The River Styx) rất hấp dẫn vì Styx là một dòng sông trong thần thoại Hy
Lạp nói đến ranh giới giữa trái đất này và thế giới bên kia hay cõi chết. Nó
cũng còn có ý nghĩa tương đương với địa ngục. Từ Tập 3 tới Tập 5 hầu hết chỉ
chiếu lại những trận chiến lớn: An Khê, (trận đầu tiên), Plei Me, Ia Drang,
Pleiku, Bình Giã, Đồi 1338, Đồi 875. Đây là những trận đã được chiếu nhiều lần
trong các phim Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Cái mới là có những câu chuyện
thương tâm hơn, đau đớn hơn của những người quân nhân Mỹ và gia đình của họ.
So với phim của Maclear, những hình ảnh trong phim này cũng không có gì mới lạ.
Tuy nhiên nó được làm sống động hơn, rất ấn tượng nhờ áp dụng kỹ thuật mầu sắc,
ca nhạc, âm thanh tân tiến cùng với nhiều cuộc phỏng vấn những người tham chiến
và cách dẫn giải của các bình luận gia.
Trong khuôn khổ giới hạn của bài này, chúng tôi tập trung nhiều hơn vào hai phần
đầu vì ba phần sau hầu hết là chiếu lại những trận chiến lớn như đã đề cập.
Trên mạng BBC có bài tường thuật về buổi giới thiệu cuốn phim ở Sài Gòn. Cuối
phần trả lời các câu hỏi, đạo diễn Lynn Novick tóm tắt về bộ phim: “Chúng tôi
muốn biết cái gì đã xảy ra ở nơi đây… mô tả thực tại, chiến tranh, chiến trường,
sự chết chóc, sự hy sinh… Chúng tôi cố gắng không phán xét. Chúng tôi nói về những
trải nghiệm tối tăm nhất trong cuộc đời nhân vật. Chúng tôi cố gắng trung thực
với những bi kịch, kể câu chuyện từ nhiều phía, và tìm cách thể hiện rất nhiều
trải nghiệm của người Việt Nam trong cuộc chiến.”
Hai nhà làm phim B & N cho rằng, khác với vô số tài liệu và phim ảnh về cuộc
chiến đã có trước đây chỉ trình bày những gì người Mỹ làm, hay những chiến trận
hay đau khổ của người Mỹ (như phim Apocalypse Now hay Platoon), phim THE
VIETNAM WAR sẽ cho cử tọa biết thêm nhiều về những biến cố, những câu chuyện về
thân phận cá nhân xẩy ra cho người Việt Nam, được kể lại trong các cuộc phỏng vấn
từ mọi phía, với các tham dự viên người Việt ở cả hai phía Miền Bắc và Miền Nam
Việt Nam.
Dù đã có một chiến lược tiếp cận rất hay và đầy tính cách con người, bộ phim có
nhiều khuyết điểm. Sau đây là những thí dụ:
-Hai nhà đạo diễn B & N nói là “không phán xét” nhưng thực ra là có phán
xét một cách thầm kín. Thí dụ như đoạn phim Mỹ chiến đấu trong những năm
1966-1967 được lồng vào đoạn phim hình ảnh trong cuộc chiến khốc liệt của Pháp
trong thập niên 40-50. Như vậy là coi người lính Mỹ cũng giống như người lính
Pháp: áp bức, tàn bạo? Và rồi Mỹ cũng sẽ lặp lại những sai lầm của thực dân
Pháp?
Phim phán xét về TT Ngô Đình Diệm:
“Ông là con người tàn nhẫn, không tin ai ngoài gia đình, lanh lợi, tháo vát, biết
khai thác những yếu điểm của đối phương.” Rồi gán cho ông một biệt hiệu: “Đấng
cứu thế không có thông điệp.”
Phán xét này ngược hẳn với đánh giá của tờ New York Times năm 1957, gọi ông Diệm
là “một người giải phóng Á Châu,” hay tuần báo Life: “Con người cứng rắn và như
phép lạ của Việt Nam,” hay Nghị Sĩ Jacob Javits (tiểu bang New York): “Ông là một
trong những anh hùng của thế giới tự do,” hay Nghị Sĩ Mike Mansfield (Montana):
“Công trạng ngăn chận được xâm lăng của Cộng Sản ở Việt Nam, và vì vậy ở cả
Đông Nam Á, là do sự quyết tâm, can đảm, trong sạch và chính trực của Tổng Thống
Diệm, một người đã chứng tỏ khả năng rất cao trước những khó khăn thật là to lớn.”
Năm 1961, Phó Tổng Thống Johnson đi xa hơn, gọi ông Diệm là “Winston Churchchil
của Đông Nam Á.”
- Phim muốn kể câu chuyện từ nhiều phía… rất nhiều trải nghiệm của người Việt
Nam trong cuộc chiến nhưng đã phỏng vấn rất ít người từ phía VNCH, mà cuộc chiến
xảy ra căn bản là ở Miền Nam Việt Nam. Thời giờ dành cho những người này cũng rất
vắn vỏi, coi như chỉ qua loa để gọi là có phỏng vấn. Đâu là những hình ảnh và
câu chuyện của những người quân nhân anh dũng của VNCH? Đâu là những hình ảnh vợ
con của họ sống trong cảnh khó khăn, cô đơn ở thôn quê Miền Nam, chờ mãi không
thấy chồng về?
- Về phía các bình luận gia thì Neil Sheehan (ký giả thiên tả, cực lực chống đối
chinh phủ VNCH) là một trong những diễn giả chính của phim. Không thấy có phỏng
vấn những tác giả thuộc thành phần xét lại như Mark Moyar, Lewis Sorley.
Một sai sót lớn: phim đã khai thác khá dài về Trận Ấp Bắc
(1/1963) dựa trên cuốn A Bright Shining Lie (Lời Nói Dối Sáng Ngời) của Neil
Sheehan, đổ lỗi cho người chỉ huy quân đội VNCH và ca tụng ông Paul Vann hết lời.
Tác giả Moyar đã thuật lại chi tiết trận đánh, địa hình địa vật, và quân số hai
bên, cũng như diễn tiến trận đánh, để đi đến nhận xét rất rõ ràng về những dối
trá của Paul Vann khi ông cung cấp thông tin về trận này cho Sheehan (KDMNV,
trang 470-472).
- Phim không đề cập tới một thực tại quan trọng ở Việt Nam trong thập niên 40,
đó là sự hình thành của Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN).
Đâu là câu chuyện Đại Sứ Nhật Yokohama đến gặp Hoàng đế Bảo Đại để chuyển giao
nền độc lập sau khi lật đổ Pháp (11/3/1945):
“Tâu hoàng thượng, đêm hôm qua chúng tôi đã chấm dứt chủ quyền của Pháp quốc
trên đất nước này. Tôi được trao nhiệm vụ dâng nền độc lập của Việt Nam cho
hoàng thượng.”
Có nghĩa là trao độc lập của toàn thể lãnh thổ gồm cả các hải đảo mà Nhật đã
chiếm như Hoàng Sa, Trường Sa. Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố độc lập và thành lập
chính phủ Trần Trọng Kim. Tới lúc ký Hiệp Định Geneva chia đôi lãnh thổ thì
chính phủ QGVN đã được 35 quốc gia công nhận. Sau Geneva, chính phủ VNCH tiếp nối
QGVN. Hiệp Định Geneva có Trung Quốc ký vào, như vậy là TQ đã công nhận Hoàng
Sa, Trường Sa thuộc về Việt Nam. Đây là một sự kiện quan trọng giúp cho Việt
Nam trong bối cảnh tranh chấp hiện nay ở Biển Đông.
- Phim cũng không nói đến bức thư đầu tiên của lãnh đạo Việt Nam, Hoàng Đế Bảo
Đại gửi TT Truman ngày 18 Tháng Tám 1945? Nhật vừa trả độc lập, HĐ Bảo Đại đã
viết ngay cho TT Truman yêu cầu Pháp phải tôn trọng nguyên tắc bình đẳng giữa
các dân tộc và trả lại độc lập cho Việt Nam:
“Thưa tổng thống, chế độ thuộc địa không còn thích hợp với chiều hướng lịch sử
hiện tại… Nước Pháp phải vui lòng nhìn nhận điều đó để tránh khỏi thảm họa chiến
tranh trên đất nước chúng tôi.” (KĐMNV, trang 35).
Cùng ngày, ông gửi một tâm thư cho Tướng de Gaulle:
“Nếu các ngài trở lại… mỗi làng xóm sẽ trở nên một tổ kháng chiến, mỗi người bạn
sẽ trở nên một kẻ thù.”
- Về phía chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, phim có nói tới một bức thư của
Chủ Tịch Hồ Chí Minh (với chữ ký của ông) gửi TT Truman yêu cầu Mỹ ngăn chận
Pháp trở lại và ủng hộ nền độc lập Việt Nam (bản chụp bức thư: xem KĐMNV, trang
709-710).
Thực ra là có tất cả tới 14 văn thư và công hàm của ông Hồ gửi Tòa Bạch Ốc và Bộ
Ngoại Giao Mỹ, yêu cầu ủng hộ nền độc lập và cứu trợ nạn đói đang hoành hành khắp
mền Bắc. Về bức thư được trích dẫn, người bình luận trong phim (Leslie Gelb)
nói rằng thư này không tới tay Tổng Thống Truman (có thể với hàm ý là vì vậy
cho nên ông Truman không trả lời). Điều này là không đúng, vì trong 14 văn thư
và công hàm được tóm tắt trong Phụ Lục cuốn KĐMNV (trang 704-721) có một văn kiện
(ngày 17/10/1945) do chính telex của tòa Bạch Ốc in lại.
Trong cuốn KĐMNV, chúng tôi có viết:
“Như vậy là cả hai phía Việt Minh và Quốc Gia đều cầu cứu Mỹ ngăn chận Pháp trở
lại Việt Nam. Thời gian đó, nạn đói lại đang hoành hành ở miền Trung và miền Bắc,
chết từ 1.5 tới 2 triệu người. Xem như vậy, ta có thể đặt ra một câu hỏi: nếu
như lúc ấy Mỹ đáp ứng yêu cầu của cả hai phe phái Việt Nam để ngăn chận Pháp và
đặc biệt là cứu trợ nạn đói 1945 thì lịch sử đã ra như thế nào? Liệu có Vietnam
War hay không? Mỹ có thể dễ dàng mở một Tòa Lãnh Sự ở Việt Nam để xử dụng số gạo
thặng dư quá nhiều của mình để cứu vớt gần 17% dân số Việt nam trong cảnh đói
rét. Trong trường hợp ấy toàn dân Việt Nam sẽ hoan hô Mỹ, và Pháp đã không thể
trở lại.
- Đến thời chính phủ VNCH, cuốn phim nhận định không đúng về việc Mỹ ủng hộ ông
Diệm từ ban đầu. Một bình luận gia nói (hình như Leslie Gelb):
“Chúng tôi muốn giúp xây dựng một chính phủ hợp pháp. Chúng tôi tin vào ông Diệm
– hay cũng là nạn nhân của ông ta.” Đây là nhắc lại bình luận của giới truyền
thông thiên tả mà chúng tôi đã thường nghe/xem trong những năm 1958-1963. Bây
giờ, sau trên nửa thế kỷ, với bao nhiêu nghiên cứu mới, giải mật, thông tin mới
mà phim vẫn còn “kể lại cho trung thực” kiểu này thì làm sao ta hiểu nổi? Sự thật
là ngay từ ban đầu Mỹ đã không tin vào ông Diệm (xem KĐMNV, Chương 10-11). Sau
đây là những gì đã xảy ra:
-Tháng Bảy 1954, ông Diệm chấp chính, thành lập chính phủ;
-Tháng Tám 1954, Đại Sứ Mỹ Donald Heath đề nghị về Washington: “Ta phải để ý
theo dõi tìm một lãnh đạo khác;”
-Tháng Mười Hai 1954: Tướng Collins, đặc ủy của TT Eisenhower đề nghị “Mỹ chỉ
nên ủng hộ ông Diệm thêm vài ba tuần nữa thôi.”
-Đầu Tháng Tư 1955: Tướng Collins đề nghị rõ ràng về 5 bước để loại bỏ ông Diệm.
-Cuối Tháng Tư 1955: Washington gửi chỉ thị tối mật: thay thế Thủ Tướng Diệm.
Như vậy là chỉ nội trong 10 tháng chấp chính, Mỹ đã muốn lật đổ Thủ Tướng Diệm.
Phim cũng không nói đến các thành quả kinh tế, xã hội mà phía VNCH đã gặt hái
như “5-Năm Vàng Son 1955-1960” (KĐMNV, Chương 13). Về hành chánh đã có các cán
bộ được huấn luyện chu đáo trong hai thập kỷ bởi Học Viện Quốc Gia Hành Chánh,
chẳng thua gì Ecole Nationale D’Administration của Pháp (nơi xản xuất các lãnh
đạo Pháp), các đại học Luật khoa, Y khoa, nơi sản xuất ra các luật sư, thẩm
phán biết đẩy mạnh truyền thống pháp trị /rule of law và các bác sĩ làm việc trong
các bệnh viện thay thế bác sĩ Pháp. Miền Nam Việt Nam thực sự đã đặt được những
viên gạch đầu tiên trong các năm 1955-1960 cho mô hình phát triển sau này của
chính Nam Hàn dưới thời TT Phác Chính Hy.
Tại sao có chiến tranh Việt Nam – “WHY VIETNAM WAR?”
-Phim lấy tên là Vietnam War mà lại không chiếu hình ảnh và phỏng vấn về “tại
sao có chiến tranh Việt Nam – Why Vietnam War?” Đây là thiếu sót rất quan trọng.
Thí dụ như TV không thể chỉ chiếu và dẫn giải về cảnh tàn phá, hoang tàn ở
Houston và Florida mới đây mà không chiếu và dẫn giải về lộ trình và tốc độ của
con mắt đỏ Harvey và Irma, lồng lộn xoáy vào từ ngoài đại dương.
- Phim nói mập mờ cho rằng chiến tranh Việt Nam đã leo thang từng bước vì những
tính toán sai lầm của các lãnh đạo kế tiếp nhau ở Washington. Sự thực là 5 tổng
thống (Truman, Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon) đã tính toán rất kỹ về quyền
lợi của Mỹ như đã được chứng minh rõ ràng trong cuốn KĐMNV. Tất cả có tới 7 quyền
lợi mà Mỹ muốn bảo vệ ở Biển Đông, mà Việt Nam là “địa điểm chiến lược quan trọng
nhất” như Tổng Tham Mưu Mỹ đã xác định (KĐMNV, Chương 3).
- Vietnam War thực sự bắt đầu khi TT Kennedy mang quân chiến đấu vào Việt Nam.
Phim không nói sự thực về động cơ nào đã đưa ông Kennedy tới quyết định ấy. Lý
do đưa quân tác chiến vào không phải là để “bảo vệ tự do của nhân dân Miền Nam”
mà là vì hai cú sốc. Thứ nhất, ngày đăng quang, ông tuyên bố “Chúng tôi sẽ trả
bất cứ giá nào, xốc vác bất cứ gáng nặng nào… để bảo đảm sự sống còn và sự
thành công của tự do.” Nhưng vừa tuyên bố như vậy thì phải chịu hai cái thất bại
liên tục, một ở Lào và một ở Cuba. Ông tâm sự: “Tôi không thể chấp nhận cái thất
bại thứ ba,” cho nên ông tập trung vào Việt Nam. Thứ hai, mùa Hè 1961 ông bị một
cú sốc mạnh khi Lãnh đạo Liên Xô Nilkita Khrushchev thách thức ông tại cuộc họp
thượng đỉnh Vienna: “Tôi muốn hòa bình, nhưng nếu ông muốn chiến tranh thì đó
là vấn đề của ông.”
Trở về Washington, TT Kennedy tâm sự với James Reston, trạm trưởng của tờ New
York Times tại Washington và là bạn ông Kennedy: “Ông ta đối xử với tôi như một
cậu bé con… Ông ta nghĩ rằng vụ Vịnh Con Heo chứng tỏ là tôi thiếu kinh nghiệm.
Có thể ông ta còn nghĩ là tôi ngu nữa. Và có thể quan trọng nhất, ông ta nghĩ
tôi không có gan.”
Cho nên Kennedy đã quyết định phản ứng, chọn Việt Nam làm nơi đọ sức với Liên
Xô. Lúc ấy Khrushchev đang thay đổi chiến lược: chuyển từ trực tiếp đối mặt với
Mỹ sang gián tiếp, từ chiến tranh quy ước tới chiến tranh du kích. Kennedy quyết
định: “Việt Nam là đúng chỗ rồi.” Ông đôn quân vào Miền Nam.
TT Diệm không đồng ý cho Mỹ mang quân vào
Sau quyết định ấy, cái gì đã xảy ra tại Saigon thì phim Vietnam War đã bỏ qua
hoàn toàn. Đây là điểm lịch sử cần phải được làm sáng tỏ: Mỹ mang quân vào trái
với ý muốn của TT Diệm. Muốn trung thực thì bắt buộc phải chiếu hình ảnh và phỏng
vấn về điểm này. TT Diệm chỉ yêu cầu – vì chống Cộng là quyền lợi hỗ tương của
cả hai nước – Hoa Kỳ yểm trợ phương tiện vật chất, hoặc là hai bên đi tới một
hiệp ước quốc phòng song phương thay vì mang quân đội Mỹ vào.
Sau cùng Mỹ phải tìm hai cớ để đôn quân vào. Chúng tôi đã nghiên cứu thật kỹ và
viết lại cho rõ ràng trong cuốn KĐMNV (Chương 15-16):
-Lấy cớ huấn luyện quân đội Miền Nam: Tổng tham mưu Mỹ đề nghị “Để thuyết phục
ông Diệm thì hay nhất là lấy cớ đem quân ‘vào để huấn luyện’, rồi đem một đơn vị
chiến đấu quân vào đóng ở Việt Nam với công tác là giúp thiết lập hai doanh trại
huấn luyện.”
-Lấy cớ “cứu trợ lũ lụt”: Tướng McGarr, Chỉ huy trưởng cơ quan viện trở quân sự
MAAG gửi một công điện về Ngũ Giác Đài: “Trận lụt rất nặng ở Đồng Bằng Cửu
Long… nặng nhất kể từ 1937 cho thấy ta có thể dùng việc cứu trợ lũ lụt để biện
hộ cho việc mang quân vào làm công việc nhân đạo, để rồi có thể giữ quân đội
này lại nếu muốn.”
Chẳng bao lâu, cố vấn, quân nhân, CIA, ký giả thiên tả Mỹ tràn lan khắp nơi.
Trong cuốn sách A Death in November, tác giả Ellen Hammer kể lại: có lần TT Diệm
phàn nàn với Đại sứ Pháp Lalouette: “Tôi không bao giờ yêu cầu những người quân
nhân này tới đây. Họ cũng chẳng có cả hộ chiếu nữa.”
- Phim không nói tới sự kiện là trước bối cảnh đó, TT Diệm ngỏ ý muốn Mỹ rút bớt
cố vấn đi. Đại Sứ Pháp Lalouette cho rằng “lý do chính đưa tới quyết định của Mỹ
loại bỏ ông Diệm là vì vào Tháng Tư năm ấy (1963), ông đã toan tính yêu cầu Mỹ
rút cố vấn.”
TT Diệm nhìn thấy chân trời tím, muốn tìm giải pháp hòa bình. Qua Cố Vấn Ngô
Đình Nhu, ông đã sắp xếp để điều đình về hiệp thương với miền Bắc, rồi từng bước
tiến tới thống nhất trong hòa bình. Thời điểm ấy, miền Bắc đang gặp khủng hoảng
về lương thực trầm trọng. Theo người môi giới giữa hai bên là ĐS Balan là ông
Maneli (trong phái đoàn kiểm soát đình chiến), thì chính phủ miền Bắc sau cả
năm suy nghĩ đã đồng ý để hợp tác với TT Diệm và Mỹ để đi bước này.
Nhưng ĐS Lodge, rồi Bộ Trưởng McNamara và Tướng Taylor báo cáo cho TT Kennedy:
“Sự ve vãn của ông Nhu với ý định điều đình (với Hà Nội) – cho dù là nghiêm chỉnh
hay không đi nữa – cũng đã cho thấy có sự bất tương phùng căn bản đối với những
mục tiêu của Hoa Kỳ.”
- Về bối cảnh đảo chính, phim chỉ chiếu cảnh Thượng Tọa Thích Quảng Đức tự
thiêu, thanh niên biểu tình, không nói gì về vai trò của các ký giả thiên tả
(như Sheehan, Halberstam, Brown, Sully) và quan chức Mỹ (Harryman, Hillsman,
Forrestal, Ball) nhất là Đại Sứ Henry Cabot Lodge (chúng tôi gọi là Đao phủ
Henry I) đã đưa tới đảo chính và sát hại TT Diệm.
Biến cố này là điểm ngoặt, dẫn đến xáo trộn và khủng hoảng chính trị ở Miền Nam
trong hai năm tiếp theo. Trước viễn tượng Miền Nam bị sụp đổ, TT Johnson mang đại
quân vào để yểm trợ. Cuộc chiến leo thang rất nhanh từ đó, và thương vong, chết
chóc cũng tăng lên rất nhanh từ đó.
Bộ phim có nhiều thiếu sót và sai sót. Thiếu sót quan trọng nhất trong phần đầu
là không đề cập tới trách nhiệm của Mỹ trong cuộc đảo chính và hạ sát TT Diệm.
Nếu như thay vì đảo chính, Mỹ ủng hộ sáng kiến và đồng hành với TT Diệm để tìm
giải pháp hòa bình thì liệu VIETNAM WAR có xảy ra hay không? Biểu tình nửa triệu
người có xảy ra hay không?
Không đề cập tới những gì đã xảy ra tại Dinh Gia Long, những bi kịch, hậu quả của
những quyết định của TT Kennedy (như đem quân vào, đảo chính TT Diệm) thì làm
sao đạo diễn Novick có thể nói rằng: “Chúng tôi muốn biết cái gì đã xảy ra ở
nơi đây… mô tả thực tại… trung thực với những bi kịch, kể câu chuyện từ nhiều
phía, và tìm cách thể hiện rất nhiều trải nghiệm của người Việt Nam trong cuộc
chiến?”
Hy vọng rằng trong 5 phần còn lại được bắt đầu chiếu từ ngày 24 Tháng Chín cuốn
phim sẽ đi sâu hơn, cân đối hơn, chính xác hơn, và công bằng hơn.
Hãy trả lại cho César những gì thuộc về César.
No comments:
Post a Comment