Monday, October 31, 2016

DI CH ÚC TRẦN NHÂN TÔNG SỨ ĐIỆP CỨU NGUY TỔ QUỐC

DI CHÚC TRẦN NHÂN TÔNG
SỨ ĐIỆP CỨU NGUY TỔ QUỐC

                                                                    Ngô Quốc Sĩ
          Thi ca yêu nước  đã thấm đượm trong văn chương và lịch sử dân Việt trải dài qua nhiều thế hệ, từ thời lập quốc, đến thời hưng quốc, dành lại độc lập và chủ quyền trong tay giặc Tàu và giặc Tây của  tổ tiên thuở trước,  cũng như công cuộc đấu tranh chống nội thù là  cộng sản Việt Nam và ngoại tặc là Trung cộng hôm nay.

Trong dòng văn học ái quốc hào hùng đó, chúng ta đã nói tới dòng chảy cách mạng liên tục như hơi thở Lạc Hồng, từ Tuyên Ngôn Độc Lập của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô Đại Cáo của Lê Lợi, đến thơ tù Phan Bội Châu, Lê Quốc Quân, Nguyễn Chí Thiện, cũng như thơ phản kháng của Bùi Minh Quốc, Phan Huy..Hôm nay, chúng ta lại trở về cội nguồn, tìm lại nhửng áng thi ca yêu nước trong dòng thơ của một quân vương anh hùng. Đó là Trần Nhân Tông..

          Trần Nhân Tông là con của vua Trần Thánh Tông và là vị vua thứ  ba của nhà Trần. Trong lịch sử Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua yêu nước và anh hùng.    Ngài ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng. Ngài được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Ngài là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam và về sau ngài được gọi một cách cung kính là “Phật Hoàng”
          Điều đáng nói là Trần Nhân Tông không phải chỉ là một vị vua anh hùng chống  giặc Nguyên Mông, mà còn là một nhà thơ giàu tình cảm yêu thiên nhiên, yêu tha nhân. Ngài  đã thể hiện nỗi lòng của ngài trong 46 bài thơ chữ Hán, diễn tả những cảm xúc trước cảnh đẹp thiên nhiên, như các bài thơ mang tên Nguyệt, Xuân cảnh, Đăng Bảo Đài sơn, Đại Lãm Thần Quang tự, hay những rung cảm chân thành  trước nhân tình thế thái, như Khuê oán, Sư đệ vấn đáp..
          Đáng nói nhất là bài Di Chúc, đã để lại cho hậu thế một sứ điệp tuyệt vời về sứ mệnh bảo vệ Tổ Quốc và giang sơn gấm vóc.
          Trước tiênTrần Nhân Tôn đã nhắc nhở con cháu về đại họa xâm lăng từ phương Bắc. Nhà vua đã khẳng định đó là một tội ác, trái đạo làm người, bất nhân bất nghĩa:
Các Người chớ quên!  Nghe lời Ta dạy
Chính nước lớn làm những điều bậy bạ
                             Trái đạo làm người
                             Bất nghĩa bất nhân
          Nguyên nhân của tai họa, của bất nhân và tội ác,  chính là thái độ kẻ cả, muốn bá chủ thế giới của các đại cường, vốn nuôi mộng xâm lăng, chủ trương nuốt sống các nước nhỏ láng giềng để bành trướng thế lực. Nếu thời nay, Lý Quang Diệu từ Singapore đã nhận thức được đại họa Trung Quốc, và Ngô Đình Nhu từ Việt Nam, 60 năm trước, cũng đã nhìn thấy đại họa xâm lăng của chú “con Trời”, thì ngày xưa, Trần Nhân Tông cũng đã cảnh báo về mối thảm họa phương Bắc:
                             Ỷ nước lớn
                              Tự cho mình cái quyền ăn nói! 
                              Nói một đường làm một nẻo  
                              Vô luân!
          Từ kinh nghiệm đau thương trên, nhà vua đã nhắc nhở cháu con một cách thiết thực. Không thể xem thường chuyện nhỏ, vì chuyện nhỏ  cũng thành chuyện lớn, trong chủ trương xâm lăng với những mánh khóe che đậy tinh vi:
               Chớ xem thường chuyện nhỏ ngoài biên ải.
Chuyện vụn vặt thành lớn chuyện
                                 Ngoại xâm!!
          Thực tế hôm nay đã chứng minh rõ ràng, lời của Trần Nhân Tông đúng sự thực như thánh phán. Hôm nay, thác Bản Giốc,  ải Nam Quan, Hoàng Sa Trường Sa tưởng là chuyện nhỏ, nhưng thực sự là chuyện đại sự trong chủ trương Bắc Thuộc mới của Trung Quốc. Những ngụy ngữ 4 Tốt, 16 Chữ Vàng chỉ là những vỏ bọc nhung che đậy ý đồ to lớn trong những sự kiện nhỏ bé, chẳng khác nào tà ma chước qủy:
          Họa Trung Hoa!  Tự lâu đời truyền kiếp! 
 Kiếm cớ này bày chuyện nọ! TÀ MA!
              Không tôn trọng biên cương theo quy ước.  
            Tranh chấp hoài! Không thôn tính được ta
          Thật hiển nhiên như ban ngày. Giặc Tàu ngày xưa hay ngày nay thì cũng là kẻ thù truyền kiếp, không đội trời chung với dân tộc Việt Nam. Trung Quốc chỉ muốn biến Việt Nam, thành một tỉnh bang của Thiên Triều. Việt Nam oai hùng như chim đại bàng, nhưng giặc Tàu chỉ nuôi manh tâm biến Việt Nam thành chim di:
                             Chúng gậm nhấm Sơn Hà và Hải Đảo.  
                             Chớ xem thường chuyện vụn vặt Chí Nguy! 
                             Gặm nhấm dần giang sơn ta nhỏ lại 
                             Tổ ĐẠI BÀNG thành cái tổ chim di
          Trước manh tâm của kẻ thù giả nhân giả nghĩa phương Bắc, Trần Nhân Tông đã cảnh giác, nhận thức rõ ràng mối thảm họa, đúng là một minh quân có trí, với viễn kiến, thấy rộng nhìn xa: 
Các việc trên khiến Ta đây nghĩ tới
Canh cánh bên lòng “ĐẠI SỰ QUỐC GIA”!
Chúng kiếm cớ xua quân qua ĐẠI VIỆT
Biến nước ta thành quận huyện Trung Hoa!
          Từ nhận thức chính xác đó, nhà vua đã chuyển tới con cháu ngàn sau một thông điệp . Đó là thông điệp cương quyết bảo vệ từng tấc đất, từng mảnh biển cha ông để lại như thể gia tài của mẹ:
                    Vậy nên
                    Các người phải nhớ lời ta dặn
                    Không để mất một tấc đất của tiền nhân để lại
                    Hãy đề phòng quân Đại Hán Trung Hoa
                    Lời nhắn nhủ cũngt là lời di chúc
                    Cho muôn đời con cháu nước Nam ta
          Lời dặn dò của tổ tiên là thế! Nhưng đau đớn thay! Cộng sản Việt Nam hôm nay là những đứa con hoang, đã giả câm giả điếc trước những lời dạy dỗ khôn ngoan của  cha ông. Tập đoàn lãnh đạo Hà Nội đang đem gia tài của mẹ dâng hiến cho ngoại bang. Công hàm Phạm Văn Đồng, Mật Ước Thành Đô, Hiệp Định Biên Giới, Hiệp Định Lãnh  Hải, chẳng phải là những văn kiện bán nước, phản bội tiền nhân đó sao? Cũng thế, Bô Xít tây Nguyên, núi rừng Việt Bắc, khu tự trị Bình Dương, khu công nghệ Vũng Áng..chẳng phải là những chuyện tưởng  nhỏ, nhưng thật sự là chuyện lớn, ảnh hưởng tới số phận dân tộc Việt Nam hàng thế hệ! Theo Võ Thị Hảo, dân tộc Việt Nam đang chết dưới tay Trung Quốc, nhưng điều  khốn nạn là chính bọn người mệnh danh là “con cháu Bác” đã tự nguyện đem cái chết về cứa cổ dân tộc! Ai mà chẳng cảm thấy đứt ruột như Bùi Minh Quốc:
                         Tổ Quốc hỡi tình chi đau đớn vậy
                   Con yêu người, ngục tối nuốt trời xanh
                   Ôi Tổ Quốc vào tay quỉ dữ
                   Tiếng hát tự do uất nghẹn khắp thân mình.

          Di chúcTrần Nhân Tông, sứ điệp cứu nguy Tổ Quốc, đã được nhiều con dân Việt Nam lắng nghe. Nhưng người cộng sản, những đứa con hoang, những kẻ lầm đường, có chịu thức tỉnh, mở tai mà nghe lời tiền nhân, mở mắt mà nhìn nỗi đớn đau khổ nhục của dân tộc, như Bùi Minh Quốc, như Phan Huy không?  Hay bọn chúng chỉ tiếp tục sống phè phỡn trên xương máu dân tộc, chờ ngày dân Việt lôi ra pháp trường?

No comments:

Post a Comment