Wednesday, April 18, 2018


CHÉN HẬN CHƯA VƠI

                                                                     Ngô Quốc Sĩ
          Ba Mươi Tháng Tư, mốc điểm lịch sử đau thương của dân Việt được ghi dấu như Ngày Quốc Hận, sau 43 năm vẫn còn rỉ máu. Dân Việt năm châu vẫn hướng lòng về quê hương để tưởng niệm những nỗi đau chất ngất, như thể cùng nhấp chén hận chưa vơi..

          Niềm tủi hận đó đã tuôn chảy như những giọt máu còn tươi, những dòng nước mắt còn nóng với những mơ ước còn đầy..
          Trước hết, Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích đã nhỏ vào thơ những giọt lệ Tháng Tư thật thê lương. Nắng tháng Tư vàng rưng mắt, trăng tháng Tư thấm lạnh môi, làm cho lòng dân Việt nát tan:
                   Tháng Tư nắng đổ vàng rưng mắt
                   Loáng ánh trăng liềm thấm lạnh môi
                   Nghe ấm đất người l
ng quặn thắt
                   Hồn quê rạn vỡ mảnh trời đôi!
          Rồi, đó là những giọt lệ nhỏ xuống trên quê hương ngục tù của Trần Trung Đạo. Nhà thơ đã cảm thấy đứt ruột từng đêm, nghe tiếng quốc văng vẳng từ trùng xa:
                   Tôi một dạo hay ôm đàn đứng hát
                    Bài ca buồn tiếng quốc vọng đêm khuya
                    Quảng Nam ơi khúc ruột đã chia lìa
                    Chiều viễn xứ ngậm ngùi cho non nước
          Ngậm ngùi cho non nước, nhà thơ đã cảm thấy phẫn nộ khi nhìn  đất mẹ bị đọa đày dưới gót qủy đỏ:
                   Dải đất Việt Nam
                   Nằm co ro như một kẻ ăn mày
                   Đang thoi thóp cuộc đời trên góc phố
                   Như giọt lệ chảy dài nhưng chưa nhỏ
                   Như chiếc lưng khòm Mẹ gánh cả trời thương. 
          Thái Tú Hạp cũng đã nhỏ những giọt lệ thương cảm cho dân Việt phải bỏ nước ra đi, làm than du mục, mà luôn luôn canh cánh bên lòng hình ảnh quê mẹ dấu yêu:      
                   suốt một đời du mục
                   thăm thẳm hồn cố hương
                   núi sông đầy ẩn tích
                   em mắt sầu đông phương
         Chấp nhận đất khách quê người làm quê hương thứ hai, dân Việt lưu vong luôn mang cảm thức bị lưu đày, giống như cảm thức bị lưu đày trên quê hương mình của dân Việt tại quê nhà:
                   tang thương vừng nguyệt úa
          trên quê hương xứ người
           ta và anh tù ngục
           hai phương trời giống nhau
Lưu lạc hai chân trời, Hoàng Phong Linh vẫn ngày đêm gạt nước mắt  đi tìm hình bóng mẹ Việt Nam đang bị lũ con hoang xâu xé :
                   Bốn mươi ba năm rồi
                   Con vẫn đi tìm Mẹ.
                   Vết thương mồ côi còn hoen máu lệ
                   Bao đêm ác mộng bùng lên.
                   Giữa trùng dương thuyền như lá lênh đênh
Trần Hoài Thư cũng đã chia sẻ nỗi đau xa xứ của dân Việt với tâm cảm bơ vơ, lạc lỏng giữa đất trời bao la :
                   Ở đâu cũng vẫn đất trời
                   Cũng rừng cô tịch cũng đồi tà dương
                   Cũng ngày nắng cũng đêm sương
                   Cũng qua cũng lại phố phường người dưng
Qua thơ Cung Trầm tưởng, chúng ta lại tìm thấy những giọt nước mắt nhỏ xuống trên thân phận lưu vong như con thuyền không bến, như chiếc lá bị cuốn trôi giữa dòng đời hờ hững :
                   Chiều đầu sông ngóng cuối sông 
                   Quê ai một rẻo lau bồng lẻ loi 
                   Nước nguồn cuốn lá nguồn trôi 
                   Thừng côi cút buộc thuyền côi cút bờ 
                   Bơ vơ này níu bơ vơ 
                   Kia mây núi vấn mây chờ nẻo mây 
          Cùng mang tâm thức mất nước, Trần Tuấn Kiệt đã nhỏ lệ vào những vần thơ thật truyền cảm. Chim mãi nhớ tổ. Người mãi nhớ nguồn, như trăng sao vỗ cánh gọi về tổ ấm:
                   Vẫn ngày tháng trăng sao ngàn cánh gọi
                   Vẫn muôn trùng chim nhớ tổ kêu vang
                   Vẫn từng ấy buổi chiều xanh tựa ngọc
                   Mộng êm đềm kiều diễm bủa vây em
          V lại được tổ ấm, thì tất cả sẽ đổi thay. Trần gian không còn là tù ngục mà biến thành trần gian ân ái. Mùa đông lạnh lẽo khô chết sẽ qua đi, nhường chỗ cho mùa xuân ấp áp với  giấc mộng thanh bình:
       Tôi hát khúc trần gian đầy ân ái
       Em dạo cung hồ cầm đó ngày xưa
       Cơn gió xuân xa, lưng trời thổi lại
       Mộng bình yên thôi đã mất bao giờ
         Cùng chia sẻ tâm thức mất nước đó, Nguyễn Bắc Sơn cũng đã nhỏ vào thơ những giọt lệ hờn tủi, thương cảm cho thân phận  hẩm hiu của người dân mất nước như kiếp ngựa qùe”
                   Bây giờ ta đã thành ti tiểu 
                   Uốn vào khuôn khổ cuộc đời kia 
                   Loanh quanh trong chiếc chuồng vuông chật 
                   Sống đủ trăm năm kiếp ngựa què. 
         Nhưng nhà thơ đã không chán chường tuyệt vọng, trái lại đã trải lên thơ những giọt lệ hưng phấn, hy vọng về một tương lai tươi sáng của dân tộc sau khi bóng tối qua đi, bình minh chiếu rạng trên quê hương. Lúc ấy, Việt Nam có núi có sông có rừng có biển  đã dành lại được trong tay ngoại xâm, và toàn dân đứng lên xây lại ngôi nhà Việt Nam:
                   Ta định tặng cho mọi người 
                   Một món quà thật lớn 
                   Trong gói quà 
                   Có núi có sông 
                   Có rừng có biển.. 
                   Có một Việt Nam 
                   Quằn quại trong cơn đau 
                   Có khí thế đang lên 
                   Xây đời hậu chiến 
          Cũng trong tâm cảm ly hương, Phan Thị Ngôn Ngữ đã gửi  vào thơ những giọt lệ Tháng Tư  thật ngậm ngùi:
                   Tháng Tư phượng bói đỏ cành
                    Muốn quên sao chẳng thể đành lòng quên
                   Sông dài chia những dòng kênh
                   Hồn quê chia những miếu đền phế hưng
          Nhưng với hồn quê lai láng, nhà thơ đã cùng dân Việt siết tay nhau chia sẻ niềm đau, và cùng nhau chờ đón ngày hội ngộ nơi quê cha đất tổ, trong bọc mẹ yêu thương.
                    Ở đây đèn phố trăng ngàn
                   Đêm chong dạ nhớ ngày vàng mắt trông
                   Quê cha đổi mạch thay dòng
                   Tứ phương về trụ giữa lòng mẹ xưa…
          Đặc biệt, Nguyên Thạch nhân dịp tưởng niệm quốc hận, đã gửi cho mẹ Việt Nam những giọt lệ nồng ấm, như lời tuyên chiến hùng hồn với các thế lực phản bội:
                   Chắc mẹ đã biết, bao nhiêu năm chúng con chịu đựng
                   Dưới gót hung tàn, bao tang chứng đau thương
                   Trong tim chúng con vẫn yêu Tổ Quốc quí Quê Hương
                   Trong khốn khó…chúng con sẽ tìm đường đứng dậy.
          Toàn dân tìm đường đứng dậy quyết tâm diệt nội thù, đuổi ngoại tặc để viết trang sử mới.
                   Đồng bào ta ơi, hãy vùng lên diệt Hán
                   Đánh tan bầy buôn bán non sông
                   Hãy cùng nhau dựng lại ngày hội Diên Hồng
                   Đã đến lúc phải đồng lòng đứng dậy…
          Đó là lời hịch Tháng Tư. Đó là những giọt lệ và những giọt máu nhỏ xuống đất mẹ chắc chắn sẽ nở thành hoa như Nguyễn Chí Thiện đã mơ ước:
                   Máu ươm hoa hoa máu chan hòa
                   Hoa sẽ nở muôn nhà muôn vạn đóa..

No comments:

Post a Comment