TRẦN
TUẤN KIỆT
KHÚC TRƯỜNG BI CA QUÊ HƯƠNG
Ngô
Quốc Sĩ
Trần Tuấn Kiệt sinh tại Sa Ðéc, do đó có bút hiệu là Sa Giang. Từ
thời còn rất trẻ, vào thập niên 1950, thơ văn của ông đã xuất hiện nhiều trên
báo chí. Ban đầu Trần Tuấn Kiệt nhờ Nhất Linh, Nguyễn Vỹ, Tam Ích giới thiệu
viết báo. Năm 1975 ông đã cộng tác với báo Sinh lực của Đồng Tân, Văn Hóa Ngày
Nay của Nhất Linh, Phổ Thông của Nguyễn Vỹ, Vui Sống của Bình Nguyên Lộc, Sống
của Chu Tử, Nghệ Thuật của Mai Thảo.
Vào khoảng thập niên 70, ông chủ trương nhà xuất bản Hồng
Lĩnh với Mặc Tưởng, Phạm Quốc Bảo, Bùi Ngọc Tuấn. Năm 1971 ông được trao giải
thưởng văn chương toàn quốc của tổng thống Việt Nam Cộng hòa với tập thơ “Lời gởi cho cây bông vải.”
Ngoài bút hiệu Sa Giang và tên thật Trần Tuấn Kiệt, ông còn
dùng nhiều bút hiệu khác để viết sách võ thuật, tư tưởng, truyện thần thoại, truyện
kiếm hiệp, chuyện dã sử tình cảm...
Sau năm 1975 Trần Tuấn Kiệt phải đi tù cộng sản 10 năm.
Ông đã cho xuất bản nhiều
tác phẩm đủ thể loại như Thơ: Thơ Trần Tuấn
Kiệt, Nai, Bài ca thế giới, Cổng
gió, Mê cung Màu kỉ niệm , Niềm hoan lạc, Lời gửi cây bông
vải.
Truyện: Sa mạc lan dần, Tiếng
đồng nội. Biên khảo:
Thi ca Việt Nam hiện đại
Cũng
thuộc
nòi tình, Trần Tuấn Kiệt đã trải vào thơ những lời tình tha thiết với hương thơm
của thân xác ngà ngọc, với nhịp đập của con tim nồng cháy:
Anh còn giữ mùi hương lan dạ thảo
Mùi hạnh nhân kỳ ảo tấm thân em
Lời em gọi tiếng thì thầm nhật nguyệt
Lửa yêu thương huyền hỏa đọng buồng tim
Mùi hạnh nhân kỳ ảo tấm thân em
Lời em gọi tiếng thì thầm nhật nguyệt
Lửa yêu thương huyền hỏa đọng buồng tim
Giây phút đó cận kề nhau mãi
mãi
Nguồn ái ân hoa trái rụng bên thềm
Đâu đấy có giọng chim hồng bay lại
Tiếng sáo chiều vi vút thoảng yêu đương
Nguồn ái ân hoa trái rụng bên thềm
Đâu đấy có giọng chim hồng bay lại
Tiếng sáo chiều vi vút thoảng yêu đương
Cái
đẹp của tình yêu ở đây, là có một chút gì dòn mỏng, một chút ngăn cách vừa đủ để
khóc, để gợi sầu thương và mơ mộng kết tinh thành hoa đời:
Em hãy
khóc để lá vàng rơi rụng
Chuỗi sầu mơ kết lại trái hoa đời
Mai trần thế phai mờ như chiếc bóng
Ta và em dựng lại chút tình người.
Chuỗi sầu mơ kết lại trái hoa đời
Mai trần thế phai mờ như chiếc bóng
Ta và em dựng lại chút tình người.
Yêu em tha thiết, Trần
Tuấn Kiệt cũng dành cho quê hương một nỗi nhớ khôn nguôi. Sống xa nhà ông vẫn
luôn luôn gắn bó với quê mẹ dấu yêu:
Lưng gầy lạnh
gió đầu thu
Tóc bay theo khói sương mù bãi xanh
Cồn tiên sóng lớp vây quanh
Năm mươi năm đã dấu hình mẹ xưa
Tóc bay theo khói sương mù bãi xanh
Cồn tiên sóng lớp vây quanh
Năm mươi năm đã dấu hình mẹ xưa
Nhớ
quê mẹ đẹp, thì hẳn nhiên phải thương quê mẹ điêu tàn do chiến tranh tàn phá. Với
nỗi lòng quặn thắt, nhà thơ đành cúi mặt khóc thầm cho quê hương khổ đau:
Thanh bình khúc hát vu vơ
Đêm nay nhớ mẹ bên bờ lau không
Cồn tiên bóng hạc lượn vòng
Sầu riêng cúi mặt đôi giòng lệ sa
Đêm nay nhớ mẹ bên bờ lau không
Cồn tiên bóng hạc lượn vòng
Sầu riêng cúi mặt đôi giòng lệ sa
Khóc thầm là
phải, vì quê hương ngập tràn khói lửa, máu đổ xương rơi, như khúc bi ca nỗi buồn
Việt Nam, làm môi lưỡi tê điếng như ngậm bồ hòn:
Quê
hương thưa nhạt sắc hồng
Ráng chiều in đỏ trăm vùng máu xương
Biển chiều thao thiết vong hồn
Rét tê đầu lưỡi khúc trường bi ca
Mai em uống nước giang hà
Giòng sông biền biệt chảy qua linh hồn
Đắng cay trăm quả bồ hòn
Em ơi hãy nhớ nỗi buồn Việt Nam
Ráng chiều in đỏ trăm vùng máu xương
Biển chiều thao thiết vong hồn
Rét tê đầu lưỡi khúc trường bi ca
Mai em uống nước giang hà
Giòng sông biền biệt chảy qua linh hồn
Đắng cay trăm quả bồ hòn
Em ơi hãy nhớ nỗi buồn Việt Nam
Tuy quê hương còn đó, nhưng
dân Việt đã thật sự mất quê hương. Người lưu lạc xứ người. Kẻ ở lại bị lưu đày
trên chính quê hương mình! Trăm con Việt như cánh chim lạc mẹ, luôn luôn nhớ về
tổ ấm kêu than như tiếng quốc văng vẳng:
Vẫn
ngày tháng trăng sao ngàn cánh gọiVẫn muôn trùng chim nhớ tổ kêu vang
Vẫn từng ấy buổi chiều xanh tựa ngọc
Mộng êm đềm kiều diễm bủa vây em
Tiếng quốc ảo não
nhưng không tuyệt vọng. Nhà thơ vẫn chờ vẫn đợi ngày quê hương trở lại tươi thắm
như người xưa ngồi thả câu đợi thời:
Anh vẫn cứ ngồi bên
bờ sông vắng
Vẫn nghe rì rào tơ liễu phất phơ
Vẫn nhìn ngó dưới lòng sông mây trắng
Nỗi bên trời trong trẻo mắt em thơ
Vẫn nghe rì rào tơ liễu phất phơ
Vẫn nhìn ngó dưới lòng sông mây trắng
Nỗi bên trời trong trẻo mắt em thơ
Rồi trong nỗi
chờ mong thao thức, nhà thơ đã khoác áo Kinh Kha mài kiếm dưới trăng chờ ngày
tiếng trống thúc quân vang dậy, sẽ hiên ngang lên đường diệt thù:
Mộng vàng ai thếp màu son nhạt
kiếm khách mài gươm dưới nguyệt tàn
ta về trễ quá muôn năm trước
trống đồn bi ký cõi nhân gian
kiếm khách mài gươm dưới nguyệt tàn
ta về trễ quá muôn năm trước
trống đồn bi ký cõi nhân gian
Mài kiếm dưới
trăng, tác giả đã bước vào ảo giác,
nhìn thấy bóng dáng người xưa trở về, chập chờn với chiêng trống dậy thành, ngựa
hí vang trời:
Ấy ai cưỡi ngựa chơi vườn cũkhua trống chiêng xưa bóng chập chờn
kìa xem trăng mộng thành thiên cổ
hoa lá vin cành điệp dưới thôn
Đẹp thay! Chen lẫn với bóng người
xưa, còn có bóng em dịu dàng đưa tay hái trái trong vườn, như dáng thơ bên giàn
thiên lý:
Em còn hái trái bên câyVết son mùa để dấu hài đầu tiên
Loi choi bước nhảy chân chim
Gió tan mây tụ đảo điên hồn người
Thế là đã có em về, ươm hoa
vàng trái mộng trên quê hương thắm tuơi huy hoàng:
Vườn chim trái mộng hoa
vàngNửa đêm trăng cũng huy hoàng bên em
Từ tình yêu và quê hương, Trần Tuấn
Kiệt đã bước qua ngưỡng cửa nhân sinh để cảm nghiệm ý nghĩa cuộc đời như cõi sa
mạc hoang vu, bốn bề lạnh vắng:
Em đi chân
bước lạc đà
Suốt miền ải hạn giữa sa mạc người
Phượng hoàng xuống đậu hai vai
Ngậm hoa quỳ nhớ thiên thai không về
Ngàn năm mây trắng trôi đi
Với hồn xưa động bốn bề không gian
Suốt miền ải hạn giữa sa mạc người
Phượng hoàng xuống đậu hai vai
Ngậm hoa quỳ nhớ thiên thai không về
Ngàn năm mây trắng trôi đi
Với hồn xưa động bốn bề không gian
Trong
cõi sa mạc hoang lạnh đó, đã ẩn hiện bóng dáng thần chết qua dấu tích bia thành vách mộ
Xưa kia ta đến bên thành
Cỏ cây cũng nhớ thương mình ra hoa
Vầng trăng bến ngựa giang hà
Bia thành vách mộ lòng ta chợt buồn
Cỏ cây cũng nhớ thương mình ra hoa
Vầng trăng bến ngựa giang hà
Bia thành vách mộ lòng ta chợt buồn
Nói chung, cuộc đời chỉ là cõi sa mù, mà thế sự đổi thay huyễn hoặc như lá sầu rơi rụng
trên bến hoang:
Biên cương
gió bão sa mùNửa vầng trăng lạ ửng màu xanh cây
Rừng xưa thả lá theo ngày
Giòng tan tác đổ xuống hoài bến hoang
Gót nai đi giữa thu tàn
Sầu tơi tả rụng muôn vàn lông non
Để kết, xin biểu tỏ mối
đồng cảm với Trần Tuấn Kiệt, cùng chia sớt nỗi nhớ quê hương và mối sầu nhân thế
của nhà thơ mẫn cảm..
No comments:
Post a Comment