HỒ TRƯỜNG
TÂM SỰ U UẤT CỦA NHÀ CÁCH MẠNG
BẤT ĐẮC CHÍ
Hồ
Trường là một bài thơ tuyệt tác của Nguyễn Bá Trác, nói lên tâm trạng bất đắc
chí của một chiến sĩ cách mạng. Ông sinh
làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông Đỗ cử nhân tại Huế, ra Hà Nội
học tiếng Pháp rồi Du học Nhật Bản 1908 và sang Trung Quốc sau khi phong trào
Đông Du bị giải tán
Ông tham
gia phong trào Đông Du của cụ Phan Bôi Châu. Sau về đầu thú chính quyền bảo hộ và Nam Triều.,
làm quan, thăng chức Tổng Đốc, Thanh Hóa. Dư luận không mấy coi trọng, vì bỏ cách mạng về
đầu hàng Pháp, được thăng quan tiến chức. Nguyễn Bá Trác còn bị chỉ trích là đã
phản bội đồng chí, tố giác ông Đặng Văn
Phương, làm cho ông Phương bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo
Ngồi ghế Tổng Đốc, Nguyễn Bá Trác đã bị
cộng sản bắt và xử bắn công khai giai đoạn gọi là Cách Mạng tháng 8, năm 1945 tại Quy Nhơn. Thế cũng là một
kết cục bi thảm đối với một người bất đắc chí, đã để lại cho đời một bài thơ bất
hủ!
Về xuất xứ Hồ Trường: Hồ là bầu đựng ruợu còn Truờng là chén uống rượu. Hồ Trường, tên
bài thơ, không phải do tác giả đặt, mà do độc giả lấy lời và ý trong bài ca “Nam Phương Ca Khúc” ở chương 10 của Hạn
Mạn Du Ký.
Về Hình
thức: Bài Hồ Trường có một số chữ không
thống nhất, đang đuợc bàn cãi: Đại trượng
phu-trượng phu, Không hay xé gan-không
hề xé gan, Bẻ cật-bẻ cột, Lưu lạc tha hương-Lưu lạc tha phương, Đá chảy cát
giương-Đá chảy cát vương, Sầu đối
cỏ cây=sầu với cỏ cây
Nói
chung, lời thơ Hồ Trường mạnh như dòng thác, hào hùng như lưỡi kiếm Kinh Kha .Mở đầu, giọng thơ tuôn ra mạnh mẽ như Kinh Kha vừa
vung kiếm, đường kiếm tuyệt vời tưởng như chém bay đầu giặc:
Đại truợng phu
Không hề xé gan bẻ cột
Phủ cương thường
Hà tất tiêu dao
Nam nhi sự nghiệp ư..hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây
Nhưng rồi giọng thơ rụng xuống, ão não
như đuờng kiếm bị gãy oan uổng, tang thương; Kiếm gãy và ý chí sắt thép cũng
gãy đổ một cách bi đát:
Chí
chưa thành, danh chưa đạt
Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dươ
Đi sâu vào nộu dung bài thơ, chúng ta
bắt gặp nhiều hình ảnh thảm khốc nói lên tâm trạng của nguời anh hùng lỡ vận::
Truớc hết là hình ảnh đất nước tang
thương. Nếu Nguyễn Khuyến đã nhận thức
tình trạng đất nuớc vắng vẻ điêu tàn duới ách đô hộ thức dân:
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
thì tác giả Hồ Tr ờng cũng đau xót thở than
Trời Nam nghìn dặm thẳm
Đất nước một màu sương
Tiếp
đến là ý thức về thân phận hẩm hiu, bất lực trước thời gian.
Đời trai đang trôi đi theo năm tháng, mộng tang bồng hồ thỉ đang tàn
tạ với tuổi xế chiều khi nợ nuớc còn nguyên chưa đền đáp:
Chí
chưa thành, danh cưa đạt, trai trẻ bao năm mà đầu
bạc, trăm năm thân thế bóng tà dương.
Từ nỗi tuyệt vọng truớc hoàn cảnh đất nuớc và bất lực truớc thời gian, tác giả
đã cảm nghiệm nỗi cô đơn, thiếu người tri kỷ, của người cuồng sĩ bất đắc chí:
Vỗ gươm mà hát
Nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang
Ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta
Chung cạn một hồ trường
Hỏi để mà hỏi, bởi lẽ non nước vắng
tanh, bốn bế luân lạc tha phương, trời Nam nghìn dặm thẳm, nên chỉ một mình cô
đơn, cạn chén hồ trương mà long ray rứt. Nỗi ray rứt của một người về quy hàng
thực dân mà hồn tím ngắt tan tác, vẫn mãi hướng về quê hương bị đọa đày như một kẻ vô tổ quốc:
Rót
về Đông phương, nuớc bể Đông chảy xiết, sinh cuồng lọan
Rót về Tây phương, mưa Tây Sơn từng trận
chứa chan
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi
vút, đá chảy cát giương
Rót về Nam Phương, trời Nam nghìn dặm
thẳm, có người qúa chén như điên
như cuồng
Tác
giả muốn trải lòng cho bốn phương, với vũ trụ mênh mông, có nuớc bể Đông, mưa
Tây sơn, ngọn gió Bắc, bầu trời Nam, như thể mong pha loảng nỗi sầu, cho vơi bớt nỗi
cô đơn, nhưng càng trải rộng bầu tâm sự, càng cảm thấy uẩn ức, ngột ngạt đến nỗi như điên
như cuồng:
Trời
Nam mù mịt,
Có
người qúa chén như điên cuồng
Điểm bi đát nhất là lời trần tình của kẻ bất đắc chí, chỉ là trần
tình cho chính mình, một mình mình biết, một mình mình hay, mà không mong người
đời hiểu thấu chia sẻ. Tác giả chỉ đành khóa kín bầu tâm sự não nề “
Nào
ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta ta hay
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ, hà tất
cùng sầu đối cỏ cây?
Tóm lại, Hồ Truờng là hơi thở để
trút bầu tâm sự u uất. Đó là nỗi thất vọng về tình trạng đất nuớc vô vọng: Trời Nam nghìn dặm thẳm, đất nước một màu
sương. Đó cũng là Tâm trạng bất đắc
chí của một nguời ôm hoài bão: Chí chưa
thành, danh chưa đạt..Và đó cũng là nỗi cô đơn , thiếu người tri kỷ: Trời đất mang mang, hỏi ai người tri kỷ. Và
sau cùng là nỗi ray rứt vì quê hương bị đọa đày:Trời Nam mù mịt, có người qúa chén như điên như cuồng. Nhưng bi dát
nhất là tâm sự khóa kín: Chí ta ta biết,
lòng ta ta hay
Với tất cả những ai có dịp thưởng thức tuyệt
phẩm Hồ Trường, tất cả đều có một niềm cảm
thông thật thân tình và ray rứt. Hẳn
nhiên, tang bồng hồ thỉ là món nợ trần của kẻ làm trai. Nhưng Nguyễn Bá Trác,
có lẽ vì hoàn cảnh, đã không trả được món nợ đó. Chắc ông không khỏi cảm thấy mặc
cảm tội lỗi với cụ Phan, với núi sông, nên đành ôm mối sầu riêng trong tận đáy
lòng, chỉ biết mượn chén Hồ Trường không phải để giải sầu, mà để cùng sầu với cỏ
cây:
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây
Để kết, chúng ta cảm nhận rằng, ở đời,
mỗi nguời có một hoàn cảnh khác nhau. Có người vuợt qua đuợc sự thách đố của
hoàn cảnh, quên sầu để buớc tới, làm lại cuộc đời. Nhưng truờng hợp Nguyễn Bá Trác, hoàn cảng qúa nghiệt ngã, thật
khó vuợt qua, và ông đã bị hoàn cảnh khuất phục. Dù sao, nhưng lời trần tình, tạ
lỗi với đồng chí, với Tổ Quốc của tác giả
Hồ Truờng cũng thật đáng lắng nghe và thông cảm..
No comments:
Post a Comment