THƯ
GỬI TS NGUYỄN ĐỨC KIÊN
Ngày 30 tháng 5 năm 201
Trần Kim Đoàn
Kính thưa TS. Nguyễn Đức Kiên,
Trả lời câu hỏi : “Về vấn đề an ninh - quốc phòng, ông có lo ngại
khi thời gian thuê đất dài và các đặc khu nằm ở vị trí khá nhạy cảm?”
TS. Nguyễn Đức Kiên - Phó Chủ
nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội đã nói:
“Tại
sao cứ sợ ảnh hưởng của Trung Quốc tại các đặc khu. Tại sao ở Úc, Pháp, Mỹ... đều
có Chinatown. Ở California mình có Little Saigon. Ở đó toàn người Việt, nói bằng
tiếng Việt, thì bang California có lo ngại vấn đề an ninh quốc phòng hay
không?”
Là một người Việt có song tịch
(Mỹ -Việt), đã sống nửa đời ở Việt Nam và nửa đời ở Mỹ, tôi thấy có trách nhiệm
góp ý với ông và các quan chức đang ở vị thế lãnh đạo trong nước nhằm làm sáng
tỏ sự so sánh hời hợt và suy luận quá đơn giản của quý vị về vấn đề ở tầm mức
quốc gia như thế nầy.
Khi nói đến những Khu Vực Đặc Biệt
- Đặc khu (Special Zones) của một đất nước thì cần phải hiểu ngay rằng đấy là
những khu vực nằm trên một quốc gia có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của riêng
đất nước đó. Tuyệt nhiên không có ảnh hưởng hay sự nhúng tay làm áp lực của nước
ngoài bất cứ từ đâu đến. Từ năm 1934, Mỹ đã có những Đặc khu Thương mãi với Nước
ngoài (Foreign Trade Zone – FTZ) và Trung Quốc mới bắt đầu thành lập các Đặc
khu Kinh tế (Special Economic Zone – SEZ) từ năm 1980. Trong chiến tranh Việt
Nam, miền Nam đã có những Đặc khu Quân sự như năm 1962 có Đặc khu Rừng Sát, Đặc
khu Quảng Đà nhưng ở vào một vị thế và yêu cầu chiến lược cấp thời.
Các khu dân cư và buôn bán ở tại
Pháp, Úc, Canada, Hoa Kỳ của các nhóm nước ngoài như Phố Tàu (China Town -
Quartier Chinois)), Phố Hàn (Korean Town), Phố Việt (Little Saigon) là hoàn
toàn khác với những “Đặc khu” như Ts. Kiên đã nêu ra làm ví dụ để so sánh và
suy diễn với những “Đặc khu” của người Trung Quốc trên đất nước Việt Nam.
Tôi đã đi qua và đã tận mắt chứng
kiến cũng như tìm hiểu trong quần chúng và chính mình nếm trải sự xa lạ, vong
thân, vong quốc khi tiếp cận với những “Đặc khu” Trung Quốc tại Huế (Tân Mỹ),
Đà Nẵng (Bãi biển Sơn Chà), Nha Trang (Đường Duy Tân dọc biển). Những nơi đó,
người Trung Quốc đã ngang nhiên biến những mảnh đất thân yêu Việt Nam thành những
“Tử cấm Thành” đại Hán của riêng họ. Họ che chắn bịt bùng như một sào huyệt
riêng tư, người Việt Nam không có quyền lai vãng đến đó. Ngoài ra, những nhân sự
người Trung Quốc là những kẻ mang sẵn tinh thần kiêu căng nước lớn, giàu có.
Chúng nghênh ngang sẵn sàng khiêu chiến, gây sự với người Việt Nam ló mặt tới
căn cứ địạ của họ. Và cũng đã có tin đồn phát tác rộng rãi trong quần chúng rằng,
có những tình huống éo le và mỉa mai hơn nữa là các quan chức Việt Nam cũng bị
cấm không được bước chân vào đặc khu nhượng địa của người Trung Quốc trên đất
nước Việt Nam.
Trong khi đó, những khu Phố Tàu,
Phố Hàn, Little Saigon… tại Hoa Kỳ và các nơi khác chỉ là một hình thức văn hóa
chủng tộc trong một quốc gia hợp chủng. Nếu Ts. Nguyễn Đức Kiên dụng công tìm
hiểu cẩn thận hơn thì đã không làm một sự so sánh khập khiễng và phiến diện
“đau lòng dân Việt” đến như thế.
Những nơi đó không phải là một
quốc gia trong một quốc gia như các Đặc khu Trung quốc trên đất nước Việt Nam
hiện nay. Như khu Little Saigon lớn nhất ở Santa Ana chẳng hạn là một ví dụ điển
hình phân biệt giữa cái gọi là đặc khu và khu phố thương mãi bình thường.
Toàn khu phố Little Saigòn là sở
hữu của nhiều chủ nhân, nhưng địa bàn đất đai, kiến trúc là tài sản quốc gia
Hoa Kỳ. Giới chủ nhân kinh doanh hay sở hữu địa ốc hầu hết là công dân Hoa Kỳ.
Tất cả đều phải tuyệt đối tuân thủ luật pháp quốc gia từ thượng vàng đến hạ
cám. Tiếng Anh là ngôn ngữ hành chánh chính thức (official language) mà từ một
cái hóa đơn bán lẻ đến những văn tự giao dịch hàng ngày hay các văn kiện quan
trọng đều phải dùng tiếng Anh. Những chủ nhân kinh doanh thương mãi hầu hết sử
dụng song ngữ Anh-Việt mà tiếng Việt thì tùy nghi (optional), nhưng tiếng Anh
là bắt buộc (mandatory). Không biết nói tiếng Anh thì phải dùng thông dịch viên
chứ không phải như phường ú ớ chỉ biết rặt tiếng Tàu trên xứ Việt. Mọi nguyên tắc
và quy trình sinh hoạt đều phải theo đúng tinh thần văn hóa, xã hội và pháp luật
của Hoa Kỳ. Bất cứ một biểu hiện hay sự việc xảy ra lớn nhỏ nào đều do cơ quan
an ninh Hoa Kỳ đảm trách. Mọi sự gian dối, phá rối, bạo hành, phạm pháp, tình
nghi… dù ở mức độ lớn nhỏ nào đều do cơ quan công quyền xử trị tức khắc.
Thưa Ts. Nguyễn Đức Kiên,
Là người có chút học vị, chắc
ông khó có thể phủ nhận được thực trạng Việt Nam hôm nay là đang nắm trong chiến
dịch “Chinh phục bằng vũ khí mềm” của Trung Quốc đang diễn ra quyết liệt tại
Phi Châu, Nam Mỹ và Đông Nam Á mà nước Việt Nam chúng ta đã và đang bị lún sâu
vào con đường “bán nước” theo nghĩa thật, nghĩa đen, nghĩa minh xác nhất của
nó. Đó là sự kiện (không còn là hiện tượng nữa) diễn ra quá rõ ràng rằng: đất
nước Việt Nam, từ sông núi, biển trời tới đền đài, phố chợ… từ Bắc chí Nam đã bị
bán và đang bị bán từng phần cho đạo quân vũ khí mềm Trung Quốc được trang bị
và tiềm ẩn dưới nhiếu danh nghĩa khác nhau. Nghĩa là họ chở tiền chứ không phải
chở xe tăng, đại bác đi chinh phục Việt Nam và thế giới nữa. Bất hạnh thay cho
vận nước là đồng tiền chinh phục của Trung Quốc gặp đạo hùng binh tham nhũng Việt
Nam kẻ tung người hứng thì còn chi là gia tài tổ quốc!
Hệ lụy của đất nước Việt Nam trước
nạn xâm lăng của Trung Quốc còn dài. Vai trò kẻ sĩ ngày xưa hay trí thức ngày
nay đã được đặt định: “Đất nước an nguy, người thường phải gánh” huống chi là
thành phần trí thức và quan chức như quý ngài. Có một đại biểu trong Quốc Hội
quý vị thuộc đơn vị Quảng Nam đã lên tiếng xác định với đồng viện rằng: “Có đặt
vấn đề đúng, mới đưa ra cách giải quyết đúng!” Quả nhiên là vậy. Cách đặt vấn đề
của Ts. Nguyễn Đức Kiên về những Đặc khu đang hiện hữu của người Tàu trên đất
Việt là rõ ràng chủ quan và tùy tiện; nếu không muốn nói là mỵ dân và sai lầm.
Một nhà khoa bảng giữ chức vụ trọng trách trong Quốc Hội của một nước 95 triệu
dân như ông mà nhìn sự thoái trào của đất nước như là một chuyện qua đường bâng
quơ và đơn giản như vậy thì làm sao tìm ra một con đường khả thi để giúp dân,
giữ nước.
Đây không chỉ là sự góp ý riêng
đối với trường hợp Ts. Nguyễn Đức Kiên mà là chung với các quan chức đang nằm
trong vị thế lãnh đạo Việt Nam. Rằng là: Cần đặt vấn đề đúng đối với sự xâm
lăng quân sự trên các vùng biển đảo đến cuộc vạn lý trường chinh bằng vũ khí mềm
của Trung Quốc vào Việt Nam. Cần bạch hóa những Đặc khu nhượng địa để thế hệ
con cháu mai sau không thống hận, nguyền rủa thế hệ đàn anh bất tài, tham bạo.
Đất nước là đất nước chung, một thế lực có thể nhất thời giữ độc quyền cai trị;
nhưng không ai là kẻ độc quyền yêu nước. Mong thay.
Đồng thời với đôi điều góp ý
trên đây, tôi cũng đã viết và trình bày về nạn du lịch của du khách Trung Quốc
tại Việt Nam và trên thế giới để có thêm thông tin về quan hệ nhân văn và văn
hóa ứng xử của người Trung Quốc nội địa và thế giới bên ngoài trong thời hiện đại.
Là một người con dân Việt sống
xa quê hương, tôi chỉ xin có đôi điều góp ý chân thành.
Xin cám ơn quý vị.
Trân trọng,
Trần Kiêm Đoàn, MSW; Ph.D
California. USA & Huế. VN.
No comments:
Post a Comment