THÂN PHẬN LƯU ĐÀY
Ngô Quốc Sĩ
Ý niệm lưu đày diễn tả
cuộc sống vất vưởng và nỗi lòng đau xót của những người phải rời bỏ quê hương,
sống nơi đất khách quê người. Người ta thường nhắc tới cuộc lưu đày của dân Do
Thái trong Cựu Ước.
Vì tội phản nghịch,
bị Thiên Chúa trừng phạt, thành thánh Jerusalem bị phá hủy và dân Do Thái bị lưu
đày, sáng chiều ngồi bên bờ sông Babylon mà khóc mà nhớ về Sion là quê cha đất
tổ. Hôm nay, người Do Thái đã hồi hương, trở về lập quốc và trở thành một quốc gia
hùng mạnh giữa khối Ả Rập thù nghịch. Jerusalem đã nghiễm nhiên là thủ đô Do Thái,
thách đố với các thế lực thù địch.
Từ Do Thái, chúng ta không khỏi ngậm
ngùi cảm thương cho thân phận lưu đày của dân Việt. Thi ca lưu vong đã chuyên
chở đầy đủ cảm thức bi đát đó, đặc biệt là Huy Phương, với những vần điệu thật
truyền cảm.
Trước hết, Huy Phương đã cảm nghiệm thân
phận lưu đày qua cuộc sống lưu vong của dân Việt. Nhiều người nhìn cuộc di tản
của dân Việt từ 75 với cặp mắt màu hồng, như thể tìm thấy đất hứa sau khi rời bỏ
quê hương đã trở thành đất chết. Hẳn nhiên, cuộc tạm dung có tự do dân chủ, với
cuộc sống sung túc với nhiều cơ hội tiến thân. Nhưng nỗi lòng dân Việt vẫm cảm
thấy mất mát toàn diện, vẫn “chiều chiều
ra đứng ngõ sau, trông về quê mẹ ruột đau chín chìu..” Từ nơi đất lạ quê
người, Huy Phương đã ngậm ngùi thở than:
Ta thân tốt chân trời góc bể
Nỗi
qua sông chẳng hẹn ngày về.
Thuở đứt gánh tóc còn xanh
mướt
Giờ nhìn nhau, bạc
trắng phơ phơ
Nhà thơ không khỏi tiếc nuối đã bỏ lỡ tuổi xuân xanh,
đứt gánh tang bồng như chim gãy cánh:
Hai mươi năm đốt đời trai
trẻ
Buổi sa cơ, lỡ một thế
cờ.
Mỗi nghìn
đêm còn đau giấc mộng
Mỗi sáng nhìn đất nước
khuất xa
Thân tráng sĩ - sức tàn
lực kiệt
Mộng thời trai như bóng
mây qua.
Thế
đó, như chim gãy cánh, cá nhân nhà thơ cũng như dân Việt xa xứ, đều ôm một mối
sầu hận, như thể vết thương mãi còn rỉ máu:
Người lính già tuổi chiều
bóng xế
Chẳng còn xưa, chẳng có
mai sau
Những tháng ngày sầu
niềm đất khách
Vết thương lành, vết
sẹo còn đau.
Điều đáng buồn là không phải chỉ có người
Việt lưu vong mới mang cảm thức lưu đày,
mà chính dân Việt đang sống tại quê nhà cũng cảm thấy bị lưu đày trên chính quê
hương mình. Thật vậy, dù ai đó có gọi quê hương “là chùm khế ngọt”, hay bảo rằng” “Em ra đi nơi này vẫn thế”,
nhưng thực sự quê hương đã bị cướp đoạt!
Lũ con hoang đã đem cờ đỏ về nhuốm máu dân tộc, đem búa liềm về cứa nát
thi thể của mẹ Việt nam. Hãy nghe Huy Phương mô tả thực trạng tối tăm của Việt
nam hôm nay như đêm đen, như nhà tù rộng lớn, hủy diệt tinh hoa giống nòi:
“
Em ra đi nơi này vẫn thế !”
Thành phố xưa cửa đóng
then gài
Những ánh đèn trong đêm
vụt tắt
Tên tù trong ngó đám tù
ngoài.
Còn gì nhục nhã hơn, dân Việt với trên
4000 năm văn hiến, đã từng là hòn ngọc Viễn Đông, nay đành cúi đầu để cho thằng
ngu nắm đầu cưỡi cổ. Đó chẳng phải là vô tâm và khiếp nhược sao?
Những thằng ngu làm
thầy hoạnh họe
Những
anh khôn nhẫn nhục cúi đầu
Những gì là thiên đường
Cộng Sản
Vẫn chỉ là sáo vẹt dăm
câu.
Tất cả đã đảo ngược!
TS Hà Sĩ Phu đã mô tả “Hiện tượng lọc ngược”
tại Việt Nam. Nay Huy Phương cũng phơi bày hiện thực lộn sòng đó với giọng mỉa mai chua xót:
Chị hốt rác vào ngồi
quốc hội
Anh cu li được gọi anh
hùng
Bánh vẽ đảng dành cho
mọi giới
Giàu sang riêng để đảng
tiêu dùng.
Dùng
tuyên truyền bánh vẽ để lừa dối, cộng sản còn cỗ võ hận thù, sử dụng súng đạn
để trấn áp dân lành đang kêu cứu trong lầm than nghèo đói:
Phải
dấy căm thù lên như sóng
Hãy quên đi sự thật đói
nghèo
Ta đã giỏi quen dùng
súng đạn
Ðảng làm, dân chúng
phải nghe theo.
Với chủ trương ngu dân và khốn dân, Hà
Nội đang nhận chìm đất nước xuống vực thẳm của ngu muội, chậm tiến và lạc hậu:
Phải
làm Saigon bằng Hà Nội
Phải đưa thành thị
xuống nông thôn
Phải bỏ phi thuyền đi
dép lốp
Tối tăm có đuốc đảng
soi đường
Đặc biệt, với chủ trương bần cùng hóa
nhân dân, cộng sản Việt Nam biến đất nước phồn vinh thành vũng lầy tăm tối, đến
nỗi em phải đi bới rác, mẹ phải lây lất nơi nghĩa địa, và cô giáo cũng phải bán
kẹo kiếm sống:
“Em ra đi nơi này vẫn thế!”
Em thơ tôi móc rác vệ
đường
Mẹ tôi dựng nhà trên
nghĩa địa
Cô giáo tôi bán kẹo sân
trường.
Thì ra tất cả chỉ là dối lừa phỉnh gạt
bằng chiêu bài và huyền thoại. Những mỹ từ “Độc
lập Tự Do Hạnh Phúc” chỉ là những luận
điệu tuyên truyền mị dân rỗng tuếch. Tất cả chỉ là bánh vẽ, nên dân Việt phải
rũ áo ra đi, phải chạy trốn nhà tù cộng sản là địa ngục trần gian để tìm đất
sống:
Những chiêu bài ấm no, hạnh phúc
Những danh từ độc lập,
tự do
Hơn một triệu người
đành bỏ nước
Trại tù gần tiếp trại
tù xa.
Bỏ nước ra đi. Chạy trốn địa ngục máu.
Dân Việt đã tìm thấy đất sống, nhưng lại là chốn tạm dung sầu thảm, vì luôn
luôn vẫn canh cánh bên lòng hình ảnh quê hương, với mặc cảm chưa đền xong nợ
nước
Khi tôi chết ván hòm xin đậy nắp
Có vui chi nhìn người lính chết già
Hổ thẹn đã không tròn ơn nước
Tiễn tôi chi, thêm phí một vòng hoa.
Trối trăn như thế,
nhưng tác giả vẫn phải tiếp tục sống, vẫn phải vịn vào thơ để đứng dậy, để
thương nhớ quê hương và cảm nghiệm thân phận lưu đày:
Hay rồi ngày
tháng cũng phôi pha.
Tôi người lính
già còn sống sót
Một vần thơ thay
nén nhang khuya
Khóc đất nước, thương anh
hùng tận
Xót xa cho những nỗi chia
lìa..
Điều đáng mừng là trong xót xa cho những
nỗi chia lìa, dân Việt vẫn nuôi chí phục thù, quyết tâm trở về giải cứu quê
hương, núp dưới cánh mẹ, siết chắt tay trên 90 triệu đồng bào đang đứng lên đòi
tự do dân chủ…
No comments:
Post a Comment