HOÀNG SA TRƯỜNG SA
LÀ CỦA VIỆT NAM
Trong
quá trình điền dã tại các địa phương trên địa bàn tỉnh Thái Bình, tại gia đình
anh Phan Văn Luyện (xã Vũ Chính, Thành phố Thái Bình) chúng tôi đã tiếp cận
được cuốn sách cổ, in vào đời Vua Đức Tông (Tải Điềm) – nhà Thanh (niên hiệu
Quang Tự, 1875-1909). Sách in thạch bản (in đá) bằng chữ Hán.
Anh
Luyện đã vui vẻ trao quyển sách này cho chúng tôi sở hữu và nghiên cứu với hi vọng
có thêm những cứ liệu để công bố trước công luận và làm bằng chứng để khẳng
định chủ quyền biển, đảo Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam.
Cuốn
sách này có tên “Danh hoàn Chí lược” (Sách ghi chép về địa lý Thế giới), có khổ
20cm x 14,5cm, người giám định sách là hai tiên sinh Bích Tinh Tuyền và Lưu
Ngọc Ba. Sách do Nhà xuất bản Hòe Lý Đường in.
Ở
trang 2 của sách ghi: “Quang Tự Mậu Tuất Mạnh Thu” (Tháng 7, năm Mậu Tuất, niên
hiệu Quang Tự, triều vua Đức Tông (Tải Điềm -1898). Cũng ngay ở trang 2
ghi: Thượng Hải Thư Cục Đại Ấn (Thư cục Thượng Hải được cho quyền in sách
này). Bộ sách này được biên soạn vào năm thứ 28 (Kỷ Dậu, 1849), niên hiệu
Đạo Quang, triều vua Thanh Tuyên Tông (Mân Ninh, 1821- 1851).
Ở
trang 3, 4 và trang 5 của sách có ghi bài tựa của Lưu Vận Kha, soạn vào năm Kỷ
Dậu (1849), mùa hạ tháng 4 – triều vua Thanh Tuyên Tông, niên hiệu Đạo
Quang. Bài tựa thứ 2 cũng viết vào năm Đạo Quang thứ 28, triều vua Thanh
Tuyên Tông, do Bành Uẩn Chương soạn. Bộ sách này từ khi soạn (vào năm
1849, thời vua Thanh Tuyên Tông) phải mất 49 năm sau mới được in (vào năm
1898), triều vua Đức Tông (Nhà Thanh) – niên hiệu Quang Tự.
Bộ
sách gồm nhiều tập. Chúng tôi chỉ chú tâm tới các tập 3, 4, 5 (vì 3 tập
này đóng gộp thành 1 quyển) và có ghi các đảo thuộc chủ quyền biển, đảo của
Việt Nam.
Sách Danh hoàn chí lược. Dòng chữ
nhỏ bên phải ghi người giám định Bích Tinh Tuyền, Lưu Ngọc Ba. Dòng chữ nhỏ bên
trái ghi Hòe Lý Đường Bản.
Nội
dung của sách chủ yếu tóm lược vị trí địa lý, lịch sử… của các nước trên thế
giới. Sách còn vẽ bản đồ của các nước trên thế giới: từ Trung Quốc, Nhật
Bản, Indonesia… cho đến Ả Rập.
Đặc
biệt, ở trang 24, 25 của tập sách này có in tấm bản đồ Trung Quốc, mang tên
“Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ” (Bản đồ toàn quốc thống nhất đời nhà
Thanh). Trên bản đồ này đều có vẽ các nước có chung đường biên giới với
Trung Quốc, như: Việt Nam, Mông Cổ, Ấn Độ, Triều Tiên…
Đáng
chú ý, ở phần biển đảo, Trung quốc chỉ vẽ đảo Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam), Đảo
Đài Loan (của Trung Quốc)… sau đó ghi chú là biển nhưng không hề vẽ và ghi chú
đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc.
Đặc
biệt hơn nữa, ở tấm bản đồ in tại trang 40, 41 của cuốn sách này thì bên cạnh
việc vẽ bản đồ đường biển Trung Quốc lại có vẽ eo biển Quảng Nam (và ghi rõ là
Nam Việt – tức Việt Nam). Bên cạnh eo biển Quảng Nam, bản đồ này còn vẽ
đảo Thất Châu Dương – biển Thất Châu (cả khu vực biển đảo Trường Sa, Hoàng Sa –
Vạn lý Trường Sa. Nếu theo bản đồ Trung Quốc thì Hoàng Sa, Trường Sa là
thuộc biển Thất Châu Dương – một cách gọi tên khác mà người Trung Quốc xưa
thường dùng và ghi chú trên bản đồ để chỉ khu vực biển đảo Trường Sa, Hoàng Sa
của Việt Nam (không có ghi khu vực biển Thất Châu Dương này thuộc địa giới của
Trung Quốc).
Bản đồ đã chú thích trong đó có
Trường Sa, Hoàng Sa thuộc địa phận biển Việt Nam.
Ở
tấm bản đồ trang 55 và 56 – chủ yếu vẽ về biển, đảo và các nước giáp Trung
Quốc: biển Ấn Độ Dương (Trung Quốc gọi là Tiểu Tây Dương) và có cả ghi chú về
Ấn Độ Dương. Trên bản đồ này còn cho biết về biển và đảo Trường Sa của
Việt Nam giáp với đảo Quỳnh Châu (Hải Nam – thuộc Quảng Châu, Trung
Quốc). Vẽ cả hình tượng bãi đá ở quần đảo Trường Sa. Trên bản đồ
này còn vẽ khu vực biển đảo Quảng Nam: Trong đó vẽ và ghi Thất Châu Dương
(Hoàng Sa, Trường Sa), vẽ cả cửa biển Lộc Nại của Quảng Nam và vẽ đảo Côn Lôn
của Việt Nam.
Đáng
chú ý ở trang 88, 89 giúp cho người đọc hiểu về luồng lạch, hướng gió và các
bãi đá ngầm ở trên các đảo Trường Sa, Hoàng Sa và phương hướng, độ dài (tính
theo cách tính canh giờ của người xưa) đi trên biển để tới được các nước khác
nếu xuất phát từ cửa biển: đảo Trường Sa của Việt Nam.
Phần
phiên âm của sách được nhà Hán học Nguyễn Tiến Đoàn dịch như sau: “…Sách Hải
quốc văn kiến lục có nói: Vùng Nam Dương (biển phía nam) là nơi thuyền buôn của
vùng Mân Việt thường đến. Đường biển nơi đây nhiều chỗ nguy hiểm.
Người chỉ huy thuyền đi qua biển này cần phải cẩn thận. Nguy hiểm nhất là
nơi có hòn đảo Áo Khí. Thủy trình đi khoảng 7 canh giờ từ đảo Áo Khí đến đảo
Lạc Tế.
Đảo này nhỏ mà bằng phẳng. Ven đảo
có nhiều đá ngầm ngổn ngang, thuyền không đến được; thu hút không khí, dòng
chảy ở bốn phía. Trên đảo có nhiều cây cỏ mọc cao hơn một trượng, có núi
Đông Sư Tượng, nếu muốn đến thì phải theo dòng nước mà đi. Không thể đi
ngược lên phía Bắc vì nhiều doi cát nổi chìm, dài khoảng 200 dặm. Đi lên
phía bắc thì có đảo và trên đảo có núi Sa Mã Kỳ. Hai ngọn núi này đối mặt
vào nhau (ngọn núi Sa Mã Kỳ và Đông Sư Tượng).
Theo
đường thủy trình trên biển là phải đi bốn canh giờ mới tới địa đầu Sa Mã Kỳ,
lại có những doi cát liên tục ở phía nam đến Việt hải (biển Việt) gọi là Trường
Sa đầu (địa đầu Trường Sa). Cứ đi về phía nam thì lại thấy nhiều doi cát
nổi lên, theo đó mà đi thì đến Vạn Lý Trường Sa. Phía nam Trường Sa có
nhiều bãi đá ngầm lởm chởm, đi tiếp là đến biển Thất Châu, gọi là Thiên Lý
Thạch Đường.
Đây
là đất nguy hiểm của vùng Nam Dương, hay có gió bão lớn ở ngoài biển, thuyền đi
biển đậu ở ngoài này thường gặp bão gió. Có những thuyền đi lạc đường mà
gặp phải nơi đó thì rất nguy hiểm. Một cửa Trường Sa nằm ở phía tây bắc
cùng với đảo Nam Áo. Ở phía tây nam là đảo Đại Tinh (Biển bình lặng¬) tạo
thành thế chân vạc ở cửa nam bắc, ước rộng phải đi chừng khoảng ngũ canh (đơn
vị đo lường thời cổ thường tính theo giờ). Thuyền buôn của người Việt
thường đậu ở đó; phía Nam là đảo Lã Tống (Lucson – Philipin), Văn Lai, Tô
Lập. Thuyền buôn thường qua mấy nước đó để trao đổi buôn bán, khi xuất
phát đều từ cửa Trường Sa mà đi.
Nếu
gặp gió bắc thì lấy chuẩn từ đảo Nam Áo. Gặp gió Nam, lấy đảo Đại Tinh
làm chuẩn để tới Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến (Quảng Đông). Nếu đi về
phía Nam của Nam Dương phải đi từ cửa Sa Mã Kỳ (Đài Loan) đến các nước ở Lữ
Tống (Philipin), giáp phía Tây Dương. Muốn đến Chiết Giang, Mân Việt… Nhật Bản
phải đi theo hướng phía Tây biển Thất Châu, Côn Lôn rồi đến Vạn Lý Trường Sa
ngoại (ngoài Vạn lý Trường Sa), qua cửa biển đảo Sa Mã Kỳ – đi theo đường thẳng
dây cung mới an toàn.
Từ
Trung Quốc mà đến nước Indonesia phải đi phía ngoài Vạn lý Trường Sa. Nơi
đây biển mờ mịt, không lấy gì làm chuẩn được cho nên muốn đi phải theo những
doi cát ở biển Việt rồi mới đến Thất Châu Dương và từ đó đi tới Indonesia; Vùng
biển này nước mênh mông nên giới hạn cũng mênh mông…”. (Trích sách “Danh hoàn
Chí lược”).
Thông qua tư
liệu đã nêu ở cuốn sách này, giúp chúng ta có thêm những bằng chứng quý giá để
góp phần khẳng định ngay từ thời nhà Thanh, các bản đồ của Trung Quốc đã vẽ các
đảo trên vùng biển của họ chỉ có đảo Hải Nam, Đài Loan là gần với khu vực biển
Việt Nam. Điều đó khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa (biển Thất Châu Dương,
theo tên gọi trên bản đồ Trung Quốc thời nhà Thanh) là thuộc chủ quyền biển đảo
của Việt Nam.
No comments:
Post a Comment