Thursday, October 24, 2019


TÌNH CHA NGẬM NGÙI
Ngô Quốc Sĩ

          Thi ca Việt Nam thường đậm nét tình mẹ. Điều đó dễ hiểu,
bởi lẽ, hình ảnh người mẹ luôn luôn gắn bó với con từ lúc mang
thai, đến ngày sinh nở bú mớm, và trải dài từ khi con chập chững
vào đời, đến ngày khôn lớn và tận cuối đời khi con nhắm mắt.
Hẳn nhiên tình cha cũng không kém tha thiết, nhưng có lẽ với
tâm lý và hoàn cảnh cũng như trách nhiệm gánh vác cuộc đời,
tình cảm của người cha kín đáo hơn, thâm trầm hơn và có khi
nghiêm khắc hơn.. Đời thường là thế. Nhưng trường hợp nhà thơ
Dzạ Chi có phần khác biệt. Qua bài thơ “Của Hồi Môn Cho Con”,
người ta nhìn thấy tình yêu của người cha đối với người con gái
trong ngày bước lên xe hoa qủa thật da diết, làm mủi lòng mọi
người, không còn lời nào để nói, chỉ còn biết cảm thông ngậm
ngùi…
          Vào thơ Dzạ Chi đã thổ lộ tâm tình người cha vừa chua xót,
vừa bùi ngùi khó tả, với nỗi lòng nửa đầy nửa vơi khi tiễn con về
nhà chồng. Vẫn biết rằng, con gái giã từ mẹ cha để theo chồng,
không phải là phân ly một đời, mà chỉ là rời tay người thân để xây
dựng cuộc đời mới với nhiều mộng ước trong lành. Nhưng với
tình yêu chan chứa, Dzạ Chi đã cảm thấy lòng mình chùng
xuống, nếu không nói là đứt đoạn khi phải rời tay con yêu:

                   Đêm nay Ta tiễn con đi
                   Cũng đâu hẵn đã phân ly một đời
                   Sao lòng Ta cứ đầy vơi
                   Hết chua xót phận lại bùi ngùi thương
          Thương con, nhớ con rời tay cha mẹ ra đi, như chim non
vừa đủ lông cánh rời tổ là chuyện dĩ nhiên. Nhưng trường hợp
Dzạ Chi, cũng như toàn thể dân Việt lưu vong, sống tạm dung nơi
đất lạ quê người, nỗi mất mát hình như lớn hơn bội phần. Từ
ngày bỏ lại sau lưng quê hương yêu dấu, xa ruộng vườn và mộ
phần tổ tiên, cảm thức ly tán đã ám ảnh dân Việt, làm cho mỗi
người muốn ghì chặt lấy những gì mình có như thể chút gì còn lại
trên bàn tay trắng. Đã thế, người Việt lưu vong còn mang tâm
cảm “nợ chưa trả, ân chưa đền” như thể chim bằng gãy cánh,
cuộc đời còn dang dở.. Nguyễn Công Trứ may mắn trả hết nợ
tang bồng nên có thể vỗ tay reo. Còn Dzạ Chi nói riêng, và dân
Việt nói chung, vẫn còn nặng nợ đối với quê hương dân tộc, với
cuộc đời, với gia đình và ngay cả đối với chính mình, nên lòng
còn vướng bận, tâm còn ray rứt, ngay cả khi đời đả xế chiều:
                   Xứ người nặng nợ lưu vong
                   Nợ cơm áo gọi ,nợ non sông đòi
                   Phần con lo đã mòn hơi
                   Thương con Ta phải trần phơi thân già
          Bi đát nhất là nhà thơ lưu vong đã cảm thấy mình như kẻ vô
gia cư, vô tổ quốc, lê gót chân lạc loài giữa chốn phồn hoa, bước
đi như kẻ không hồn, chẳng khác nào một người Chàm suốt đời
ôm hận Đồ Bàn:
                   Nhà hàng cửa chợ Ta qua
                   Đắng cay cũng lắm xót xa đã tràn
                   Mím môi nuốt hận Đồ Bàn
                   Thâu đêm một bóng dân Chàm cưu mang
          Làm thân mất nước, với nỗi buồn “quốc phá gia vong” Dzạ
Chi đã muốn ghì chặt lấy những gì còn sót lại. Đó là tình gia
đình. Nhưng oái oăm thay! Nhà thơ đành bó tay, cúi đầu chấp
nhận thêm mất mát khi con gái rời tay thương, xa tổ ấm, qua
sông trên chuyến đò ngang, ra đi xây cuộc sống mới trên bến lạ:
                   Tim Ta máu dẫu tuần hoàn
                   Giọt đau quốc phá giọt buồn gia vong
                   Giờ thêm một chuyến đò ngang
                   Con về bến lạ càng man mác sầu
          Xa con yêu, lòng cha cảm thấy bất an, thao thức trong âu lo.
Không biết người con vụng dại ngây thơ như con chim nhỏ có
vững bước chân giữa cuộc đời dâu bể này không? Xa vòng tay
âu yếm của cha mẹ, con yêu sẽ ra sao? Càng nghĩ càng lo, càng
chơi vơi trong nỗi buồn da diết, mặc cho đêm vui tân hôn rộn rã
tiếng cười…
                   Trôi đi đâu ?!! Bay về đâu ?!!
                   Ơi con chim nhỏ giữa dâu bể đời
                   Đêm vui gió lộng tiếng cười
                   Riêng mình Ta vẫn buồn chơi vơi buồn
          Như một mỉa mai vô cùng bi đát, giữa cảnh pháo đỏ rượu
nồng, trang phục lộng lẫy, tiếng nhạc rộn ràng, Dzạ Chi đã âm
thầm nhìn vào chính mình, nhìn lên tay mình, tìm chút gia tài còn
lại khi tóc đã hoa râm và đời đã xế bóng. Tác giả đã thấy gì? Tất
cả chỉ là trống vắng với bàn tay trơn, với lòng trống trải..Tự nhiên,
tác giả đã cảm thấy tủi thân. Tủi cho chính mình. Tủi cho dân Việt
mất quê hương:
                   Nhìn quanh.Pháo đỏ.Rượu nồng
                   Tủi thân ngó xuống đôi bàn tay trơn
          Còn gì bi đát hơn? Người ta tiễn con gái về nhà chồng với
của hồi môn qúy giá. Nào là gấm vóc lụa là. Nào là kim cương
vàng bạc. Còn ta? Của hồi môn cho con gái yêu chỉ là mấy vần
thơ suông đơn sơ, nhưng chan chứa cả một trời thương rút ruột
trải hồn. Tủi cho ta và cũng tủi cho con. Đó cũng chính là niềm tủi
hận của dân tộc trong kiếp sống lưu vong:
                   Thôi đành rút ruột trải hồn
                   Nỗi lòng Ta với mấy vần thơ suông
                   Bài thơ thay của hồi môn
                   Chào con…bến đục bến trong…xin chào.
          Hẳn nhiên là có tủi có hận. Nhưng xét cho cùng, của hồi
môn của nhà thơ Dzạ Chi tặng cho con gái lại qúy giá vô ngần.
Đó là tình cha tha thiết. Đó là nguồn thương bất tận. Và đó cũng
chính là nét đẹp tuyệt với của truyền thống văn hoá Việt
Nam.. “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra…” Nguồn thương còn chảy mãi, chảy mãi không bao
giờ ngừng…

No comments:

Post a Comment