MÙA ĐÔNG LƯU VONG
NỖI NHỚ QUÊ HƯƠNG RAY
RỨT
Ngô Quốc
Sĩ
Nỗi nhớ quê hương của người Việt lưu vong thật
da diết. Xa quê hương, dân Việt vẫn luôn luôn canh cánh bên lòng hình ảnh đất mẹ dấu yêu đang trải qua bao tang tóc dưới
bàn tay lũ con hoang đã bị tha hóa, đánh mất bản chất con người nói chung và
con người Việt Nam nói riêng. Thi ca yêu nước đã chuyên chở đầy đủ tâm trạng nhớ
thương ray rứt đó, tiêu biểu là những vần
thơ truyền cảm của Văn Nguyên Dưỡng qua bài Chiếc
Áo Kinh Cừu Trong Giá Đông.
Thực ra bài thơ Chiếc Áo Khinh Cừu chỉ
là một chấm nhỏ trong gia tài văn chương thắm đượm tình tự quê hương của nhà thơ
nhà văn Vĩnh Định- Văn Nguyên Dưỡng, cũng là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa,
đã từng cầm súng chiến đấu bảo vệ tự do miền Nam trước cuộc xâm lăng của cộng sản
Bắc Việt. Ông đã đóng góp cho nền văn học lưu vong
nhiều tác phẩm giá trị bằng tiếng Việt cũng như tiếng Anh, tiêu biểu như
Vùng Đêm Sương Mù , Trường Ca
Trên Bãi Chiến , Lessons
from the Vietnam War, Inside An Lộc: The Battle to Save Saigon …
Trở lại bài thơ Chiếc Áo khinh Cừu trong
Giá Đông, nhà thơ đã thể hiện tâm trạng “nhớ
về” và “nhớ thương” những gì đã bỏ
lại sau lưng khi rũ áo chiến binh, rời bỏ quê hương trong ngậm ngùi và tủi nhục.
Nhớ về thì trước hết là nhớ chiếc áo trận
đã từng lấm bụi gió sương, lấm bùn chinh chiến và lấm máu quân thù, nay đã bạc
màu theo năm tháng, chỉ còn lại như một kỷ niệm giữa mùa tuyết trắng xứ người:
Một mùa Đông nữa mỗi hoàng hôn
Bông tuyết rơi rơi lấp bụi hồng
Chiếc
áo khinh cừu nay đã bạc
Nghìn
trùng thiên lý trắng mênh mông
Chiến bào mang theo làm kỷ niệm, không
biết là áo thực hay áo ảo như mộng mơ, làm nhớ thêm chiến bào bỏ lại nơi quê
hương đọa đày. Bỏ lại chiến bào là bỏ
lại tất cả. Thế nên nhớ về chiến bào là nỗi nhớ mông lung, như thể bao quát cả
qúa khứ. Nào là mộng hải hồ của người trai thời loạn. Nào là đất nước thống khổ
điêu linh. Nào là người thân và người yêu trong xóm nhỏ:
Phấn tuyết chập chùng gợi nhớ nhung
Nhớ
mông lung mà nhớ vô cùng
Nhớ
bỏ chiến bào trong phố nhỏ
Bỏ
lại em yêu mắt não nùng
Còn nhớ thương thì hẳn đó là hình bóng người em yêu
đã phải nhỏ lệ vì xa anh, đã từng khô môi vì ngăn cách, đến nỗi nhan sắc tàn tạ
theo gió sương:
Nhớ giọt lệ nào trên má xanh
Môi
nhạt vành khô cắn nửa vành
Mái tóc buông
dài che nửa mặt
Một
đêm sao... biến sắc khuynh thành
Da diết nhất là nỗi nhớ thương quê hương
chìm lửa khói, điêu tàn trong hoang vắng đến nỗi trăng sao cũng phải rưng rưng
ngấn lệ:
Trong hụt hẫng sa trường chợt biến
Lửa
bập bùng còn sáng trấn biên
Cớ
sao dinh lũy thành hoang vắng
Trăng
não nùng lênh láng mái hiên
Thương quê hương, thương phố cũ,
và thương cho chiếc áo khinh cừu em gửi tặng anh, như để sưởi ấm thân xác và tâm hồn anh nơi sa trường, nhưng tiếc
thay, anh không dám mặc, sợ hoen lấm màu
tuyết trắng tinh anh, trắng như hồn em thơ ngây:
Nhớ trăng xưa ta trấn cổ thành
Đêm
đêm gió lạnh trống tàn canh
Khinh
cừu em gởi không hề mặc
Vì
trắng màu tuyết trắng tinh anh
Nhớ về đất mẹ, nhớ thương em gái thiên thần tuyết
trắng, nhà thơ đã chợt quay trở về với thân phận lưu vong, thương cho chính
mình bơ vơ nơi cõi lạ, lòng tan nát vì thương em thương nước thương nhà, nhưng
chỉ một mình ôm mối sầu riêng:
Rồi một sớm ta vào cõi lạ
Đông
lạnh lùng se siết thịt da
Đói
cơm vẫn giữ lòng chung thủy
Nước
mất nhà tan ta biết ta
Đau đớn nhất là mối sầu mãi là
sầu riêng, không biết chia sẻ với ai, bởi lẽ cuộc sống lưu vong nơi đất lạ không có người tri kỷ! Thôi đành đêm
đêm ôm chiếc áo trận đã bạc màu để tìm hơi ấm, như thể ôm người yêu, chờ ngày
về gặp lại em nơi quê mẹ ngàn thương:
Thấm thoát phong sương đã bấy mùa
Đói
lạnh cơ hàn trải nắng mưa
Tấm
áo hằng đêm ôm sưởi ấm
Chờ
ngày trở lại với người xưa
Nhưng oái oăm thay! “Thời
gian có hứa mấy khi”, lúc về nơi ấy thì tất cả đã đổi thay! Em đã rời bến cũ, sang thuyền khác, vui duyên
mới, để lại cho anh giòng sông tang thương và giòng đời đớn đau:
Trở
về bến cũ thuyền đã sang
Sông dậy
tang thương sóng xếp hàng
Lớp
lớp trùng trùng đau thế sự
Em
hỡi làm sao nỡ phũ phàng
Tìm về quê hương, mong gặp lai
hình bóng cũ thì ôi thôi! Người yêu đã sang ngang! Có trách ai phũ phàng thì
cũng vô ích! Văn Nguyên Dưỡng, nhà thơ, nhà binh, đành quay trở về chốn tạm
dung để tiếp tục sống, tiếp tục phần đời còn lại với chiếc áo khinh cừu đã bạc
màu, qua những mùa đông lạnh giá, mà nhớ về thương về quê hương đang rên xiết
dưới gót thù trong giặc ngoài:
Đông
đến đông này đã mấy đông
Tuyết
trắng mênh mông đến chạnh lòng
Mảnh
áo khinh cừu vai đã nặng
Hồn
quê còn lãng đãng mang mang
Hồn quê còn lãng đãng mang mang.
Đó là tâm trạng của Văn Nguyên Dưỡng nói riêng và của người Việt xa xứ nói chung, kể cả trên 90
triệu đồng bào đang bị lưu đày trên chính quê hương tại quê nhà. Nhưng điều
đáng nói là một khi hồn Việt còn, thì nước Việt cũng vẫn còn. Dù hôm nay, đất nước đang lọt vào tay bọn con hoang phản
bội công ơn tổ tiên, đánh mất bản chất Việt Nam, nhưng hồn Việt vẫn còn mất
nước chỉ là tạm thời, và công cuộc đấu tranh dành lại đất tổ sẽ thành tựu một ngày
không xa..
No comments:
Post a Comment