Wednesday, February 12, 2020


CHIA NHAU CHÉN HẬN
Ngô Quốc Sĩ

          Mối hận mất nước còn đó như những giọt máu đỏ tươi, làm cho dân Việt trong nước cũng như ngoài nước xót xa tê điếng. Nhất là những người đã từng cầm súng bảo vệ độc lập và chủ quyền của miền Nam, nay đứt lìa tan tác, kẻ ra đi tủi hận nơi tha hương, người ở lại uất nghẹn tại quê nhà. Mỗi lần có dịp gặp lại nhau, là mỗi lần chén hận lại dâng trào, nói sao cho hết, uống mấy cho vơi! Thơ  văn lưu vong trong 45 năm qua cũng đã chuyên chở biết bao thương nhớ tủi hận tiêu biểu như  Phạm Tín An Ninh, Tô Thùy Yên, Hoàng Phong Linh, Trần Trung Đạo…Hôm nay, chúng ta lại có dịp chia sẻ nỗi đau chất ngất đó của một cựu chiến sĩ trong nước, qua bài thơ “Bên Đời Bẻ Bút” của Như Không, với những vần điệu xé lòng…
          Vào thơ, Như Không đã thổ lộ niềm vui vô bờ người cựu chiến sĩ trong nước, được gặp lại đồng đội thuở xưa, nay đã cách xa bên kia đại dương xa thẳm. Người đời vẫn nói “xa mắt cách lòng”, nhưng trường hợp các chiến sĩ cộng hòa hoàn toàn khác hẳn. Càng xa mặt càng nhớ thương vô bờ, nên khi gặp lại, mọi người đều cảm thấy ấm áp, gắn bó, hồn ửng nắng với những tâm cảm dạt dào: 
                   Bạn ở xa về mời chén rượu
                   Nắng Sai Gòn như cũng vàng thêm
                   Hào sĩ bốn trời chưa gặp mặt
                   Có xa xôi mới biết tình gần
          Vui mừng là phải, bởi lẽ có thể coi cuộc gặp gỡ đồng đội trong tình “huynh đệ chi binh” giữa những người cách xa nửa vòng trái đất qủa là một kỳ ngộ. Đã một thời sống chết bên nhau nơi chiến trường đẫm máu. Rồi một thời  cùng nghẹn ngào nuốt hận trong trại tù dị sử bất nhân. Nhất là đã một ngày phải ngậm ngùi chia tay nhau, kẻ phiêu bạt nơi trời Tây, kẻ chôn chân tại trời Đông, đâu biết có bao giờ hy vọng gặp lại? Thế mà trời đất tròn, rồi cũng đã có cơ hội chia nhau chén tủi hờn, nhấp men cay mà nhớ lại một thời vung kiếm diệt thù. Tuy kiếm đã gãy, tóc đã đổi màu, nhưng cũng cảm thấy an ủi có dịp chia mối sầu chung:
                   Ta kẻ phong trần cung kiếm gãy
                   Một thời kiêu bạt chuyện đao binh
                   Rượu rót tràn ly say chẳng nổi
                   Tóc bạc mày chau chuyện bất bình
          Từ giã cung kiếm đã lâu. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã của kẻ thua cuộc, phải buông súng khi tinh thần chiến đấu còn ngút ngàn,  người chiến sĩ đã từng cầm súng nay đành cầm bút để giăng trải nỗi lòng người dân mất nước . Nhưng bi đát thay! Súng đã gãy ngày nào, thì giờ đây, hình như bút cũng chẳng còn sắc bén. Trần Dần ngày nào đã kiên cường dùng dao viết văn trên đá. Còn ta hôm nay, trước hiện thực đất nước điêu linh, đương nhiên phải nói phải viết, mà không hiểu sao ngòi bút lại cùn, như thể vô dụng, nói ra viết ra cũng chẳng cứu vãn được gì , nếu không nói là thừa thải! Thôi xin đành bẻ bút cho đỡ uất hận, còn nỗi đau dân tộc thì xin gửi trời đất cho loãng bớt cơn đau:    
                   Chữ nghĩa cũng đau điều oan khuất
                   Bao câu thơ viết chẳng ra hồn
                   Đứng giữa trời xanh mà bẻ bút
                   Nỗi niềm đem gửi với càn khôn
          Cái bi đát ở đây là men ruợu cay không làm vơi bớt hận sầu, và bút bẻ gãy rồi mà lòng lại thêm chua xót đắng cay, bởi lẽ càng đối diện với hiện thực bi đát tại quê nhà hôm nay, vết thương qúa khứ lại càng rỉ máu đỏ tươi.  Những kẻ đang vỗ ngực tự hào chiến thắng, hãnh diện đã dành  lại độc lập tự do cho dân tộc, mà thực chất chỉ là một lũ con hoang, nhẫn tâm làm Việt gian bán nước, dâng hiến gia tài của mẹ cho ngoại bang. Chế độ hôm nay là chế độ Chiêu Thống, Trần Ích Tắc, đang làm hoen ố lịch sử với manh tâm thái thú, cúi đầu làm tay sai cho giặc để giữ đảng và giữ  ghế. Ngày nào Lê Lợi đã lên án “bọn gian tà còn bán nước cầu vinh” khi “Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ”, thì hôm nay, người cựu chiến sĩ  cộng hòa cũng noi gương người xưa, kết tội lũ con hoang nhẫn tâm bán nước, phản bội tổ tiên, lại còn vênh vang ngựa xe rủng rỉnh, áo mão nghênh ngang:
                    Bốn cõi còn chưa yên bóng giặc
                   Nên lòng chát chúa tiếng gươm đao
                   Áo mão xênh xang Trần Ích Tắc
                   Ngựa xe vênh váo bọn chư hầu
          Qúa đau khổ và uất hận, người cựu chiến sĩ  đã mượn hơi cay để tìm quên. Nhưng men rượu đã không giúp quên bớt đau buồn, mà còn làm nỗi đau dâng cao, đưa người say vào ảo giác. Đối diện bóng mình trong đêm khuya, người chiến sĩ đã mời trăng cùng chia sớt hớp rượu tủi hờn, rồi mơ ngày dân Việt bừng dậy, nổi lửa cách mạng, giải cứu quê hương. Người chiến sĩ đã mơ thấy từng đoàn quân kéo về cứu nguy tổ quốc, tiếng reo hò dậy vang đất trời:
                   Có lúc nửa đêm nâng chén rượu
                   Một mình. Một bóng. Một trăng khuya
                   Lòng không gió nổi mà tan tác
                   Ngỡ tiếng quân reo vọng bốn bề
          Hẳn nhiên, trong tiếng reo hò vang  dậy đó, không phải chỉ có những người chiến sĩ cộng hòa ngày nào, mà có cả những “người chiến sĩ Tháng Tám” của Bùi Minh Quốc, những chàng “Bộ đội Cụ Hồ” của Phan Huy. Nói chung đó là tiếng thét của toàn dân Việt đứng lên đáp lại tiếng gọi tổ quốc. Nhưng mơ vẫn chỉ là mơ! Khi tỉnh rượu cay, người chiến sĩ thuở nào lại phải đối diện với thực tại thê thảm của đất nước. Chắc chắn ngày đất nước vinh quang sẽ tới, nhưng ở tuổi xế chiều, người cựu chiến binh đã cảm thấy ưu tư ngậm ngùi,  không biết mình còn sống được bao lâu, còn có cơ hội nhìn thấy quê hương bừng sáng không? Đời người ngắn ngủi. Nợ nước chưa trả xong. Cảm thức trách nhiệm của người trai đã làm cho người cựu chiến binh cảm thấy có tội với đất nước, như thể vô dụng, đã không đền đáp nợ núi sông. Thật bi đát! Mặc cảm tội lỗi đã làm cho ngưởi chiến sĩ  nghẹn ngào, sợ một ngày không xa, phải ra đi trong tức tưởi, không nhắm mắt được khi lâm chung, và sẽ mãi mãi tủi hổ trong áo quan rã mục:
                   Gần thôi, đến lúc ta nằm xuống
                   Giờ lâm chung mắt nhắm không đành
                   Nghĩ sống uổng một đời vô dụng
                   Quan quách không chừng cũng hổ danh
          Tuy không dấu nổi niềm đau, và không trông đợi nhiều ở quê nhà, người cựu chiến sĩ vẫn còn nuôi hy vọng ở khối người Việt tha hương, mong người Việt tị nạn không quên đất nước, lợi dụng thời cơ và hoàn cảnh thuận lợi để hỗ trợ cho công cuộc đấu tranh đầy chính nghĩa của dân Việt:
                   Bạn mai xứ lạ về bên ấy
                   Cuối chiều lẻ một bóng chim bay
                   Ta cũng riêng lòng đau biết mấy
                   Vọng bóng trăng mài kiếm bên trời
          Hy vọng người đi bên trời xa sẽ mài kiếm dưới trăng như Kinh Kha thuở nào, rồi mang kiếm qua bờ sông Dịch trở về diệt trừ bạo tặc. Lời nhắn gửi thật tha thiết, không biết có thấm sâu vào lòng người Việt tha hương năm châu bốn bể không? Xin nhắc nhở rằng, đồng bào ruột thịt trong nước đang chờ đợi chúng ta . Không cần biết lời nhắn gửi có khả thi hay không, nhưng  cần ghi nhận kỳ vọng chính đáng của đồng bào tại quê nhà, và tìm cách đáp ứng. Người Việt tị nạn cần nhìn lại chính mình như kẻ lưu vong, ra đi với ước nguyện trở về, không thể vội quên qúa khứ, không thể bị tha hóa mất gốc, rồi cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để hỗ trợ công cuộc đấu tranh của 95 triệu đồng bào trong nước. Có như thế mới thực sự chia nhau chén hận, và khỏi làm người trong nước thất vọng…Mong thay!

         




No comments:

Post a Comment