Thursday, April 25, 2019


DÒNG THƠ MÁU LỆ THÁNG TƯ
Ngô Quốc Sĩ

        Thi ca không hẳn chỉ để thưởng ngoạn, mà còn là vũ khí đấu tranh hữu hiệu. Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện đã khẳng định vai trò thi ca trong công cuộc đấu tranh cứu nguy Tổ Quốc: “Tất cả suy tàn, sức thơ vô hạn.Thắng không gian và thắng cả thời gian”. Thật thế! Thơ đi sâu vào lòng người, nung nấu tim người, khơi đậy lòng yêu nước, đốt lên ngọn lửa đấu tranh, cuộn lên thành bão lửa có thể thiêu rụi chế độ phi nhân phản tiến hóa..
          Trong dòng thi ca đấu tranh, người ta thường nhắc tới các nhà thơ trong nước như Bùi Minh Quốc, Phan Huy, Trần Vàng Sao, cũng như các nhà thơ ngoài nước như Tô Thùy Yên, Trần Trung Đạo, Văn Nguyên Dưỡng…Đặc biệt, mùa tưởng niệm Quốc Hận, dòng thi ca Việt lại hằn lên vết thương nhức buốt qua những vần thơ đầy máu lệ rực lửa đấu tranh..
          Trước tiên  Ngô Minh Hằng đã cháy lòng nhìn thấy những dòng nước mắt tuôn chảy trên má trong mắt dân Việt mỗi lần tháng Tư về. Hà Nội có vỗ ngực là “kẻ thắng cuộc tổ chức ăn mừng “Đại thắng mùa xuân”, thì toàn thế dân Việt chỉ thấy ngày 30 tháng 4 là ngày tang tóc, nhận chìm đất nước xuống vũng lầy tối tăm:
                   Tháng Tư ! Lại tháng Tư buồn !
                   Nhớ quê lòng cháy, mắt tuôn lệ nồng
                   Giọt đau vì núi, vì sông
                   Giọt buồn ý kiếm tình cung lỡ làng …
          Tháng tư  buồn! Máu vẫn tiếp tục nhỏ xuống trên quê hương. Bao oan khiên đã phủ xuống đầu dân tộc, trùng dương pha máu, rừng xanh nhỏ lệ, thương cho thân xác thuyền nhân trôi theo bọt sóng, hay thi thể tù nhân vùi lấp nơi rừng thẳm, nỗi đau trải dài  tận ngàn thu:

                     Tháng Tư, ôi, tháng Tư buồn !
                   Máu đào đỏ sóng trùng dương mấy tầng
                   Rừng xanh nhỏ giọt lệ thầm
                   Một lòng mộ hẹp, mấy thân xác tù !
                   Đau này còn đến thiên thu
                   Nỗi oan chưa giải, hận thù chưa nguôi !!! 
          Hận thù chưa nguôi, bởi lẽ quê hương vẫn tiếp tục rẫy chết trong tay ác qủy. Oan chưa giải, vì dân Việt tại quê nhà vẫn bị hành hạ trong tù nhỏ cũng như tù lớn, và dân Việt hải ngoại vẫn sống kiếp tha hương lạc loài:
                   Đất nước tôi vẫn trong tay ác qủy
                   Và nhà tù vẫn chật kẻ hiền lương
                   Bao triệu người vẫn sống kiếp tha hương
                   Lòng vẫn đắng vẫn đau Ngày Quốc Hận

          Đồng cảm với Ngô Minh Hằng, Hoàng Phong Linh cũng ghi khắc nỗi uất hận tháng Tư như vết thương không thể chữa lành. Vành khăn tang vẫn còn nguyên đó sau hơn bốn muơi năm miền Nam lọt vào tay cộng sản, cánh cửa tự do khép lại, dân Việt hụt hẫng rơi vào đêm đen:
                   Hơn Bốn Mươi  vành khăn tang
                   Trên đầu tôi quấn chặt.
                   Lòng lính đau quặn thắt
                   Rụng xuống mặt trời đen.

          Thật mỉa mai! Ai đó đã bị đu độc hay vô tình, vô tâm vô cảm, nhẫn tâm coi ngày quốc hận là “Ngày thống nhất đất nước”, ngày chiến thắng của “chủ đạo dân tộc” hay thậm chí là “Ngày giải phóng” trong khi dân Việt phải gục đầu tưởng niệm ngày tang tóc, khóc thương cho tự do rẫy chết, nghẹn ngào nhìn quê hương  tan nát, vật vờ trong thác lũ cuồng phong:
                   Từ thuở ban khai, xuyên rừng sâu núi dữ
                   Mẹ dắt Con đi, vạn nẻo thăng trầm.
                   Cầm tay Con tô đậm nét Từ Tâm
                   Khuyên dựng Nước , trời Nam luôn Tự Chủ.
                   Nhưng giờ đây, như cuồng phong thác lũ
                   Trên quê hương bao tội ác tuôn dòng.
           Theo Lê Chân, ngày 30/4 là ngày đoạn trường, tủi nhục. Dân Việt phải cố nuốt hờn căm, òa khóc cho quê hương điêu tàn:
                   Anh ơi ! Tháng Tư đen
                   Ngày ba mươi đoạn trường !
                   Anh nuốt hờn tủi nhục,
                   Em suối lệ trào tuôn.
          Tháng Tư là tháng Tư Đen. Ba Mươi tháng Tư là ngày trăng sao tắt lịm, quê hương phủ màu tang. Cơn quốc nạn đã biến đất mẹ thành đất chết:
                   Anh ơi ! Tháng Tư đen
                   Tháng Tư cơn Quốc nạn
                   Trời đất cùng kinh hoàng,
                   Tháng tư phủ mầu tang.

          Cũng như Lê Chân, Dương Thượng Trúc đã gọi ngày 30 tháng 4 là ngày tang tóc. Vành khăn tang mãi còn nhỏ máu trên đầu dân tộc, nhất là tuổi trẻ Việt Nam lưu lạc bốn phương:
                   Tháng tư Tổ Quốc phủ màu tang.
                   Dân tộc đau thương oán hận tràn.
                   Tủi phận nam nhi đời lữ thứ.
                   Hướng về quê mẹ lệ chứa chan…
           Với Vĩnh Liêm, 30 tháng 4 là ngày lịch sử sang trang, qua cuộc đổi đời bi thảm, đất nước điêu linh, dân tộc tan tác, nghẹn ngào ly cách dòng sữa mẹ ngát thơm:
                   Chuyện bi thảm của Miền Nam bức tử,
                   Là chuyện buồn của lịch sử sang trang.
                   Là niềm đau uất hận đã dâng tràn,
                   Là ly cách muôn đời dòng sữa Mẹ.
          Qua dòng thơ của Thế Huy, chúng ta lại cảm thấy vết thương quốc hận mãi còn đó như những giọt máu đọng, làm thâm tím cả chuỗi ngày còn lại của dân Việt trong kiếp lưu đày.Tác giả đã muốn  thét lên tiếng căm hờn uất nghẹn, kêu gọi dân Việt quyết tâm bẽ gãy xiềng xích  đày đọa dân Việt trong địa ngục đỏ:
                   Nay ba mươi tháng Tư
                   Hét cao lòng căm-phẫn
                   Của năm tháng tội-tù!
                   Sao cúi đầu ẩn-nhẫn? 
          Cùng với tiếng thét của Thế Huy, Hoàng Phong Linh đã lớn tiếng kêu gọi dân Việt đứng lên đập tan bạo cường, dựng lại mùa xuân dân tộc. Mùa xuân nở hoa nhân bản muôn màu. Mùa xuân óng ánh trên những trang sử mới:
                   Đất Nước hồi sinh giữa trời Xuân muôn vẻ
                   Như nghìn xưa theo Mẹ lúc lên non.
                   Hoa Nhân Bản, viết lại Sử vàng son
                   Dâng lên Mẹ - xin vuông tròn Đạo Lý.
          Trần Văn Lương cũng đã biểu tỏ niềm mong ước sớm dành lại non sông trong tay bạo cường, để dân Việt thoát cảnh đọa đày, chấm dứt khổ nạn:
                   Nước nhà đã khổ đau vô hạn,
                   Mãi liên miên kiếp nạn chất chồng.
                   Mong sao giành lại non sông,
                   Để dân thôi phải ngóng trông mỏi mòn
          Ngô Minh Hằng kiên vững hơn. Bà nhất định tin tưởng sẽ có ngày bình minh rạng rỡ trên quê hương dấu yêu:
                   Rồi sẽ bình minh rực tháng Tư
                   Quê hương nhất định hết lao tù
                   Cờ Vàng tô thắm khung trời Việt
                   Tổ quốc vinh quang, sạch bóng thù
          Thế đó! Thơ giải tỏa uất hận. Thơ cũng là tiếng gọi lên đường, là tiếng trống xuất quân, như thể “Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt” khởi đầu cuộc cách mạng dân chủ, giải cứu tổ quốc trong cơn nguy khốn..




Wednesday, April 24, 2019


DÒNG ĐỜI UỐN KHÚC

Từng giọt mưa rơi ngoài hiên thánh thót
Nghe đâu đây vẳng điệp khúc cuộc đời
Sáng chiều tối lối mòn xưa nếp cũ
Ta vẫn sống một thời như mọi thời

Ngày lại ngày ta đi tìm nắng mới
Vẫn nắng hôm qua vẫn nắng ngày mai
Có chút nắng len vào đời phiêu lãng
Khua dậy men đủ ấm những ngày dài

Tuổi niên thiếu chưa biết yêu biết nghĩ
Định mệnh nào đem khăn đỏ quàng vai
Áo nâu lấm bùn dép râu dính đất
Học đòi yêu Bác quên cả tương lai

Rồi một ngày quê miền Nam đất mới
Đường thênh thang trải lối mộng mơ
Cơ duyên nào đưa ta lên bục giảng
Thương làm sao những mái tóc ươm thơ!

Nhớ quay quắt những buổi chiều lặng gió
Tay vấn vương rời phấn trắng bảng đen
Hồn bỏ ngỏ trên đường dài vạn nẻo
Biết về đâu khi phố cũ lên đèn

Rồi một chiều xuân về theo cánh vỗ
Én đùa vui lồng lộng giữa khung trời
Bước chân chim nhẹ gót len vào ngõ
Áo lụa phơ phất đánh thức mộng đời

Ta ghé bến thuyền bỏ neo hẹn ước
Giấy vở trắng tinh thơm ngát vườn xuân
Chiều tan trường vòng tay thôi trống vắng
Đêm trăng sao giải yếm bắc sông Ngân

Lửng lờ trôi theo dòng đời trong đục
Bỏ quê hương tìm đất sống đổi đời
Ơn Trời Đất ngày tháng miền đất lạ
Tóc điểm sương mừng con cháu nên người

Là thế đó! Cuộc đời như triền dốc
Bước thấp cao cũng một cuộc hành trình
“Về Nhà Cha” đường núi Sọ chênh vênh
Vững tin yêu trong tâm tình phó thác

Mắt nghẹn ngào nhìn quê hương cơn lốc
Chân còn vướng tơ duyên cõi vô thường
Điệp khúc cuộc đời ru hồn tĩnh lặng
Mai ta về xin rót cạn Hồ Trường..

Xin giữ lại những ân tình một thuở
Yêu người yêu em hồng tuổi hoa niên
Đời đổi thay con tim vẫn ngoan hiền
Điệp khúc đời điệp khúc tình vạn thuở..
                             Ngô Đức Diễm









Thursday, April 18, 2019


LỬA HẬN ĐANG BỪNG CH ÁY
Ngô Quốc Sĩ

          Dân Việt tị nạn lìa bỏ quê hương  tìm tự do nơi đất khách quê người, nhưng lòng vẫn ấp ủ hình ảnh quê cha đất tổ đang bị đọa đày dưới bàn tay bạo cường.Tuy chấp nhận nơi nầy làm quê hương thứ hai, nhưng ngày đêm dân Việt vẫn mong mỏi trở về dành lại quê hương bên kia bờ đại dương còn quằn quại trong ngục tù cộng sản. Thi ca yêu nước đã đậm nét tâm thức lưu vong và tâm nguyện trở về tha thiết đó. Đặc biệt, những chiến sĩ đã một lần cầm súng, nay cầm viết trải lên giấy những nốt nhạc, những áng thơ văn, tuy có chút ngậm ngùi, nhưng luôn luôn đầy hùng khí, tiêu biểu như Phạm Tín An Ninh, Hoàng Phong Linh, Tô Thùy Yên, Văn Nguyên Dưỡng… Trong các nhà thơ từng khoác chiến y, không thể không nhắc tới Huy Văn, với dòng thơ hào hùng và truyền cảm, như ngọn lửa đấu tranh làm bao tâm hồn rạo rực..
          Cũng như nhiều văn thi sĩ khác, Huy Văn đã trải lên thơ nỗi lòng viễn khách với con tim se héo, thương mình lạc bước như con thuyền chơi vơi trên sóng nước vô định:  
                    Thương thân lưu lạc bên đời rộng
                   Sớm hôm xuôi ngược...rất mông lung!
                   Như thuyền chới với trên đầu sóng
                   Lênh đênh, trôi dạt giữa muôn trùng
          Tuy cuộc tạm dung có đầy đủ tự do với cuộc sống sung túc và tương lai nhiều hứa hẹn, nhưng dân Việt vẫn cảm thấy thiếu thốn. Mất quê hương là mất tất cả. Giờ đây chỉ còn cô đơn trống vắng, như thể hư không!
                   Thuở quan san đã thành cổ tích
                   Vòng sinh tử khép kiếp phiêu bồng 
                   Thắp ánh hoa đăng soi đáy vực
                   Soi thấu hồn ta với hư không.
          Mang tâm trạng ăn nhờ sống gửi, tác giả cảm thấy như sống bên ngoài dòng thời gian. Ngày tháng trôi đi hờ hững. Một vòng quay, một năm qua, thời gian vô tình như cánh gió lướt đi chở theo hồn lữ thứ:
                   Thì cũng miên man trời viễn xứ
                   khi thời gian trỗi một vòng quay 
                   Treo lên cánh gió hồn lữ thứ
                   Cứ thế mà trôi tháng với ngày!
          Tuy ngậm ngùi đếm bước thời gian lặng lẽ trôi, dân Việt vẫn không buông xuôi, quên cội quên nguồn, mà vẫn luôn luôn hướng lòng về đất mẹ, chờ một ngày nắng ấm về trên quê hương. Ngày đó, non sông sẽ bừng dậy sức sống. Đất chết hôm nay sẽ phục sinh trong niềm vui bất tận:
                   Mỗi năm mơ một màu nắng mới
                   Gió lặng, trời quang, ấm mặt người
                   Mong nguyên tiêu sáng đêm cứu rỗi
                   để sông núi sớm dậy nguồn vui.
          Thế là ngọn lửa lòng chưa tắt. Tấm lòng son sắt của con dân đất Việt vẫn bừng cháy ngọn lửa đấu tranh, quyết giải cứu quê hương trong cơn thử thách sóng gió:
                Lửa đã một thời khơi nguồn Khai Phá
                   Hung đúc hùng tâm từ thuở lên đường
                   Nhóm ngọn Lửa hồng. Mời gọi yêu thương
                   Cho Trời Đất luôn thắm mùa hoa nở.
          Từng ngọn lửa sẽ góp thành bão lửa, chiếu rọi u minh, xóa tan bóng tối của đêm ba mươi, và sẽ thiêu rụi ngai vàng đao phủ, trả lại hạnh phúc cho dân tộc:
                Ngọn Lửa dặm đường đã từ muôn thuở
                   Chiếu rọi u minh, soi lối chân tình
                   Lửa nối lòng thanh qua kiếp phù sinh
                   Biến hạnh phúc thành suối nguồn miên viễn.

          Với ngọn lửa bốc lên từ trong lòng, dân Việt siết chắt tay nhau hẹn thề kề vai chung sức xây lại mùa xuân dân tộc. Đó là mùa xuân nắng ấm, hoa cười. Ngày ấy, non sông gấm vóc sẽ vui hưởng mùa thịnh trị:
                   Xuân nghiêng nắng cho Đất, Trời khoe sắc
                   Người chung vai, sánh bước giữa đường hoa
                   Thời chiến chinh mà sao đẹp như là
                   mùa thạnh trị của non sông gấm vóc!
          Giấc mơ thật huy hoàng. Nhưng giấc mơ đó chỉ trở thành hiện thực khi dân Việt biết dấn thân và hy sinh cho lý tưởng tự do dân chủ. Nếu Nguyễn Chí Thiện đã khẳng quyết, hoa chiến thắng chỉ nở trên xương máu: “Máu ươm hoa hoa máu chan hòa, hoa sẽ nỡ muôn nhà muôn vạn đóa”, thì ở đây, Huy Văn cũng khẳng định, muốn giải cứu sơn hà, dân Việt phải hy sinh, vượt qua bức tường sợ hãi, quyết đem mạng sống đổi lấy tự do và quyền làm người:
                   Máu đã đổ! Nhưng đừng nản lòng lui bước
                   Muốn cứu sơn hà phải chấp nhận hy sinh!
                   Giữ biên cương bằng chính mạng sống mình
                   là nét đẹp ngàn đời trong trang sử Việt!
          Từ ý thức trong sáng về lòng hy sinh như đòn bẫy cách mạng, tác giả đã lên tiếng kêu gọi toàn dân Việt can đảm đứng lên làm lịch sử, diệt lũ bạo quyền đang nhẫn tâm bán nước cầu vinh:
                                Phải ngăn bạo quyền đi theo đường Chiêu Thống
                   Không thể đứng nhìn chúng bán nước cầu vinh
                   Đã hơn bốn ngàn năm hồn sông núi uy linh
                   là ngọn đuốc luôn soi đường, dẫn lối!
                Lịch sử chứng tỏ rằng, khi dân Việt siết chặt tay nhau đứng lên với sức mạnh Diên Hồng, với ngọn roi Phù Đỗng, thì kẻ thù dù mạnh đến đâu và tàn ác đấn đâu cũng phải  cúi đầu khuất phục
                   Đồng bào ơi! Hãy vượt cơn sóng dữ!
                   Cơ hội quật cường chỉ đến một lần thôi!
                   Ngọn lửa đấu tranh là ánh sáng cuộc đời
                   Đã đến lúc giương ngọn cờ quyết chiến!
          Với ý chí quật cường, dân Việt sẽ biểu dương sức mạnh dân tộc, hô vang lời “sát thát”, tiêu biểu như tiếng thét vang dậy đất của dân Phan Rí Bình Thuận mới đây:

                   Lửa Phan Rí thắp sáng đêm Bình Thuận
                   Nung lòng Dân, cất tiếng gọi Non Sông
                   Ánh Mê Linh hòa hào khí Diên Hồng
                   Lời “Sát Thát!” ngàn năm còn vọng động!
          Nỗi khổ của dân Việt đã đến tột cùng. Mẹ Việt Nam thoi thóp, không thể kéo dài cơn đau thêm nữa. Dân Việt phải đứng lên ngay. Giờ lịch sử đã điểm! Triệu con tim bừng cháy, Triệu miệng lưỡi hô vang:
                   Đừng chần chờ! Hãy cùng nhau vững tiến!
                   Hãy truyền cho nhau những ngọn lửa tim hồng!
                   Cả nước vùng lên hét một tiếng: “KHÔNG!”
                   Không chấp nhận cho bọn hèn bán nước!

          Như một lời thề, cũng là một lời nguyện, dân Việt nắm tay nhau viết lại trang sử mới, dựng lại mùa xuân dân tộc ấm no thanh bình:        
                   Mang tịnh yên thả vào làn hương quyện
                   Vạn dặm dài làm sao vượt đường mây?!
                   Đành gửi Quê lời ước hẹn một ngày
                   sẽ thắp lại ánh xuân quang Lạc Việt.

          Trong nỗi đau tưởng niệm Quốc Hận , chúng ta hãy thành khẩn chấp tay khấn nguyện Trời Đất hộ phù dân Việt qua cơn khổ nạn, đến ngày phục sinh …







Wednesday, April 17, 2019


TÂM THỨC LƯU VONG
                                                       Ngô Quốc Sĩ
                Trong những năm qua, tôi đã đem hết tim óc để viết về  lòng yêu nước của các thi sĩ tâm huyết như Nguyễn Chí Thiện, Hà Thượng Nhân, Hoàng Phong Linh, Nguyên Sa. Bùi Minh Quốc,Ngô Minh Hằng cùng với các nhạc sĩ nổi tiếng như Anh Bằng, Lê Thương, Lê Văn Khoa, Việt Dzũng, Trúc Hồ và Tuấn Khanh..
          Hôm nay, xin được dành ít phút để chia sẻ tâm tình của chính mình, một gã lưu vong, sống nơi đất khách quê người, mà lòng luôn luôn hướng về quê hương, không phải để khoe khoang hay than thân trách phận, mà chỉ để chia sẻ tâm tình của người lữ khách vào tuổi hoa râm..
          Có người hỏi rằng, sao Ngô Quốc Sĩ-Ngô Đức Diễm là một nhà giáo dạy môn Triết, lại biến thành một nhà thơ, một người làm truyền thông, và một người dấn thân đấu tranh cho tự do dân chủ, đến nỗi cộng sản Việt Nam phải lên án là “tên phản động ác ôn chạy theo đề quốc”? Xin thưa rằng, tôi chọn con đường đấu tranh chống cộng, bởi lẽ, tôi đã có cơ hội chứng kiến tận mắt những tội ác tày trời của cộng sản khi còn ấu thơ tại Hà Tĩnh trong chiến dịch “đấu tố địa chủ cường hào ác bá” tại Liên Khu Tư, cộng với những hiểu biết về chủ thuyết cộng sản qua sách vở, nhất là theo dõi những hành động đàn áp tôn giáo, cướp đoạt tự do dân chủ và nhân quyền của chế độ độc tài toàn trị tại Việt Nam..
          Tôi còn nhớ tuổi thơ tại Hà Tĩnh, khi còn là cậu bé cắp sách tới trường, tôi chỉ mong có được “đôi dép râu” có đế cao su dày hơn lớp bố để khoe với bạn bè! Giấc mơ tuổi trẻ dưới chế độ cộng sản đáng thương đến thế là cùng! Tôi cũng còn nhớ những ngày sống êm đềm tại miền Nam sau cuộc di cư 54,  học hành tốt nghiệp rồi làm nhà giáo, vui với phấn trắng bảng đen, với những mái đầu xanh thân thương..Nhất là tôi không thể quên những ngày tháng ngắn ngủi sau 75, tôi trở thành tên “mất dạy” và chọn sống qua ngày bằng nghề lơ xe đò để chuẩn bị vượt biển tìm tự do cuối năm 1976..
          Lao vào biển cả tìm 1%  cái sống trong 99% cái chết, tôi đã thầm nguyện với trời xanh biển gió:
                    Anh lặng nghe sóng vỗ
                    Như tiếng vọng ngàn xưa
                    Gian khổ bạo quyền chưa một lần khuất phục
                    Bàn chân ngạo nghễ tiến bước hiên ngang
                    Anh sẽ về trong chiến thắng vinh quang
                    Cho dân ta được sống
                    Được tự do làm người
                    Qủy sứ ma vương chấp tay đền tội
                    Đêm qua rồi ta chào đón bình minh
          Bơ vơ trên đất lạ tại bến bờ tự do, lời nguyện trên sóng đã thúc đẩy tôi dấn thân vào con đường đấu tranh từ năm 1978. Tôi đã cùng với anh em Phục Hưng Việt Nam xuôi ngược năm châu vận động cho tự do dân chủ. Ngoài các tiểu bang có đông người Việt tại Hoa Kỳ, chúng tôi cũng đã đặt chân đến Pháp, Đức, Bỉ, Tiệp, Đan Mạch, Hòa Lan, Úc, Tân tây Lan và Nga để cổ võ đấu tranh.
          Tại Tiệp, chúng tối đã có dịp đặt vòng hoa tưởng niệm tại quãng trường  Praha  năm 1991 để tưởng nhớ các chiến sĩ dân chủ đã bỏ xác tại  đây trong mùa xuân Praha:
                    Hôm nay
                   Ta đến với em
                   Ngậm ngùi đoá hoa tưởng niệm
                   Sương chiều phủ kín quãng trường đá xám
                   Nghe chừng vang vọng tiếng nấc oan hồn
                   Mùa xuân năm ấy hy vọng nẩy mầm
                   Mùa xuân năm ấy hồn em loang máu..
          Tại Nga, năm 1992, đứng giữa quãng trường Đỏ, cạnh mộ Lenin, tôi đã phải khóc vì sung sướng nhìn thấy cái nôi cộng sản đã bị dẫm nát:
                   Bia mộ ai nằm nghe nguyền rủa
                   Cẩm thạch rưng rưng cúi mặt thẹn thùng..
                   Tuyết vùi lấp mộ hồng
                   Nhục sử thôi đành quên
                   Sao lung linh đỉnh nắng
                   Thấp thoáng nẻo thiên đường
          Đến Pháp, sau khi cùng với cô Irina thuyết trình về đài phát thanh Tiếng Nói Tự Do từ Mạc Tư Khoa phát trực tiếp về Việt Nam, tôi có dịp ngồi trầm ngâm  dưới chân cầu sông Seine, cạnh tháp Eiffel mà cảm nghiệm về kiếp nhân sinh  chuyển hóa vô thường:
                   Dài thêm bóng ngả chân cầu
                   Ngỡ mình hóa kiếp ngàn sau lạc về
                   Dòng xanh trôi những hẹn thề
                   Lầu xưa vẫn đợi vai kề trăm năm
                   Tháp cao với tận mây ngàn
                   Cổ xưa bén gót thời gian ngập ngừng
                   Tưởng mình cởi áo sắc không
                   Ngàn năm hóa đá bên dòng nước trôi
          Trở về với Hoa Kỳ, tôi  có dịp đến vùng tuyết lạnh Colorado, mơ về quê hương Việt Nam sạch bóng thù:
                   Ta mơ
                   Xây nhà Việt Nam
                   Trên đỉnh cao tuyết phủ
                   Giữa tiếng nhạc thông reo
                   Mây trời lợp mái lá
                   Gió núi đan phên thưa..
                   Mỗi sáng
                   Mẹ lặng nghe nắng vào thung lũng
                   Lòng ấm như hơi ấm ngô khoai
                   Mỗi chiều
                   Cha tựa lưng vách đá
                   Thả hồn theo khói thuốc lào say..
          Rồi trải qua những năm dài ươm mộng, tôi vẫn ngay đêm thao thức về số phận của mẹ Việt Nam đang bị lũ con hoang phản bội giày xéo:
                   Trăm con ngụp lặn sử đen
                   Nội thù giày xéo ngoại xâm đọa  đày
                   Mặt nguời dạ thú cuồng say
                   Bàn tay đao phủ quyết xây ngai vàng
                   Tội đời chát mặn biển Đông
                   Lấm lem nhục sử nát lòng cháu con
          Trong số trăm con khổ đau, có những đứa con đã can đảm đứng lên phất ngọn cờ dân chủ, thách đố với bạo quyền, tiêu biểu như Nguyễn Văn Đài, Phạm Thanh Nghiên, Mẹ Nấm, làm ấm lòng mẹ Âu Cơ:
                   Tim em rạo rực tình trần
                   Quyết đem nhân nghĩa đập tan bạo cường
                   Viết em trong sáng như gương
                   Nhức tim dã thú qủy vương mặt người
                   Thản nhiên  em bước ngang trời
                   Bàn chân dẫm nát đười ươi mặt dày..
          Nói chung, mọi nỗ lực tranh đấu đều nhằm giải thể chế độ cộng sản đang gieo rắc bao oan khiên lên đầu dân tộc, như vết chém mãi còn rướm máu. Mỗi vần thơ là một viên đạn nhắm thẳng vào tim địch, để trả thù cho cha, cho mẹ, cho em và cho dân tộc.
                   Ta khai hỏa
                   bằng viên đạn này
                   Bắn thẳng vào tim những tên phản bội
                   Buộc lũ bạo cuờng gục xuống ăn ăn
                    Cho tan dân đi những nỗi căm hờn
                   Cho vơi cạn bớt những dòng lệ tủi
          Đạn vẫn bắn, vì kẻ thù còn đó, nghênh ngang trên ngai vàng đao phủ, trên giàn thiêu dân tộc…Chúng phải ngã qụy trước sức mạnh dân tộc một ngày không xa…