Friday, June 12, 2020


NGUYỄN ĐỨC SƠN
TIẾNG VỠ CUỘC ĐỜI GIỮA NGÀN THÔNG
Ngô Quốc Sĩ

          Mỗi thi nhân đều mở ra một khung trời thi ca với cái nhìn riêng biệt về cuộc đời. Nguyên Sa nhìn đời mượt mà như “áo lụa Hà Đông”. Tuệ Sỹ thấy đời sâu lắng như giòng trôi dưới cặp mắt thiền sư. Bùi Giáng tô vẽ cuộc đời với những nét ngông nghênh như kẻ khùng điên. Còn Nguyễn Đức Sơn lại lượm lặt cuộc đời từ những mảnh vỡ bi đát với nổi cô đơn hầu như tuyệt đối. Cảm thức bi đát đó không phải chỉ trào lên khi nhà thơ về ở ẩn làm “Sao Trên Rừng” tại Bảo Lộc, mà đã phảng phất trong khi anh còn đứng trên bục giảng với phấn trắng bảng đen tại Phan Rang, Sài Gòn, Bình Dương và Lâm Đồng…
          Xin mở dấu ngoặc để chia sẻ rằng, Nguyễn Đức Sơn là một thi sĩ tài danh, của đất Khánh Hòa, vùng dừa xanh cát trắng.  Người cựu học sinh Võ Tánh được tặng danh hiệu “thi sĩ vạn thông” (vạn cây thông) với biệt danh “Sơn Núi”. Anh đã để lại một kho tàng thơ văn giá trị như  Bọt Nước, Hoa Cô  Độc, Lời Ru, Đêm Nguyệt Động, Cát Bụi Mệt Mỏi, Xóm Chuồng Ngựa, Tịnh Khẩu, Du Sĩ Ca…
           Một cách chân thành, Nguyễn Đức Sơn không ngần ngại gọi mình là thi sĩ, trái lại anh đã hãnh diện được sinh ra trong bóng nguyệt mang mang, mặt đất dang dở và được thi hóa với cuộc đời tan hoang ngàn lần đổ vỡ:
                  khi ý thức mặt đất này dang dở
                   ta vội chìm trong bóng nguyệt mang mang
                   khi chấp nhận một ngàn lần đổ vỡ
                   ta một hồn đắm đuối giữa tan hoang.
          Ngập chìm giữa tan hoang, hình ảnh vũ trụ bên ngoài đã xuất hiện như một khoảng không thăm thẳm xác xơ. Tất cả chỉ là hư vô, là bãi hoang làm hồn người tê tái rụng rời như thể chết khô giữa thiên nhiên vốn tươi đẹp đầy sức sống:
                    bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
                   nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
                   chân rục rã tôi đi luồn ra núi
                   hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô
          Trên bãi hoang khô chết như sa mạc hoang vu đó, tác giả đã cảm thấy hầu như ngộp thở, bị đè nén bởi cả bầu trời sụp xuống, với làn mây quá thấp, không gian quá nhỏ, với bóng trăng vỡ tan thành những mảnh vụn kim châm:
                  buổi tối đó bầu trời như muốn ngã
                   anh một mình ôm lấy bóng trăng tan
                   mây thấp quá và hồn anh tối quá
                   không chỗ nào thở được dưới trần gian
          Thiên nhiên là thế! Trăng vỡ, trời sập, cây khô..Đó là hiện thực cuộc đời rạn vỡ. Thêm một bước qua ngưỡng cửa tư duy, nhà thơ lại càng thất vọng ê chề, bởi lẽ những giá trị tinh thần con người dày công xây đắp cũng chỉ là công dã tràng xe cát, như thể tên khùng điên sáng chiều vần tảng đá đá lên lên xuống xuống con dốc cuộc đời vô nghĩa. Văn minh, tiến bộ, niềm tự hào vỡ vụn thành cát bụi mây khói:
                   chúng ta ch ước mong gì
                   văn minh g
i cát bi v mai sau..
          Bi đát hơn nữa, là những thực thể siêu nhiên mà con người ngưỡng vọng, tìm về như quê hương vĩnh cửu, cũng chỉ là hư ảo. Nếu triết lý duy vật gọi đó là “vong thân”, con người tạo nên thần thánh để ngưỡng vọng và cúi đầu thờ lạy, thì ở đây, Nguyễn Đức Sơn cũng phảng phất tư duy vong thân đó, coi những ngưỡng vọng thiêng liêng đã chết, thần thánh trở nên ung thối mơ hồ huyễn mộng:       
                    đã chết ri bao ngưỡng vng thiêng liêng
                   dù khuya v
ng tri muôn sao lấp lánh
                   chúng đã d
ng lên bao nhiêu thn thánh
                   ung thúi r
i dưỡng cht ca chiêm bao
          Từ tư duy vong thân trong thần thánh, tác giả đã thật sự mất niềm tin vào thế giới bên kia, tự hỏi không biết linh hồn có thực không, và kiếp luân hồi cũng chẳng biết đâu là thực hư. Tất cả sẽ biến tan. Tất cả chỉ là ảo vọng!    
                mai kia tt la mt tri
                   chuy
n linh hn vi luân hi có không
                   thái h
ư chng sp chuyn vòng
                   đ
i dương tràn kéo núi đng tan đi

          Giã từ ngoại cảnh tan hoang, chới với trong vỡ vụn, nhà thơ đã quay về với chính mình may ra còn tìm thấy chút gì tồn tại làm chiếc phao cứu vớt. Bi đát thay, tìm mình chẳng thấy, mà chỉ thêm hoài nghi luôn cả hiện hữu của chính mình. Người ta vẫn tin con người có hồn có xác.  Thân xác có tiêu tan thì linh hồn vẫn tồn tại. Nguyễn Du  đã tin “Thác là thể phách, còn là tinh anh”, còn Nguyễn Đức Sơn hoài nghi cả hình hài và luôn cả hồn thiêng! Nếu Ôn Như Hầu mô tả con người như bóng đêm mờ ảo “mờ mờ  nhân ảnh như người đi đêm”, thì Nguyễn Đức Sơn cũng tự hỏi mình có thật sự hiện hữu không, hay chỉ là mây khói:
                   còn mt mình hi mt mình
                   có chăng h
n vi dáng hình là hai
                   t
ng trưa nm ngh đt dài
                   phiêu diêu nh
cái hình hài bay lên
          Ngoại cảnh và ngoại thân, rồi cả nội thân và ngưỡng vọng thiêng liêng cũng tan theo mây khói. Thế thì thất cả đúng là Hư Vô viết hoa. Đàng sau tất cả những gì gọi là “cái có”, thực ra chỉ là “cái không”.  Hẳn nhiên, nhà thơ phải chịu ảnh hưởng tư duy Phật Giáo “vô ngã” và “sắc sắc không không”, trộn lẫn với tư duy Lão Trang “hồ điệp” nên mới có cái nhìn thấu suốt vào không như thế:
                                Có vài chiếc lá còn non
                   Gió xua lửa khói nổ giòn trên không
                   Nắng tà trãi xuống mênh mông
                   Bước theo chân mẹ cha bồng hư vô
          Trước cái không phủ kín cõi người ta như thế, thử hỏi nhà thơ còn gì gọi là “có” để bám víu làm phao cứu vớt thuyền đời không? Thật may! Nhà thơ đã tìm thấy chiếc phao đó. Đây chính là cái có trong cái không, cái nguyên vẹn giữa tan hoang. Thật vậy, về Lâm Đồng sống với cỏ cây và ngàn thông, bên lề cuộc đời, Nguyễn Đức Sơn đã tìm thấy chính mình, như một tiểu ngã trong đại ngã:
                   luồn vô thy cây
                   lu
n ra thy c
                   chi
ếc linh hn nh
                   cô đ
ơn, cô đơn
          Trong cô đơn của tiểu ngã nhỏ bé giữa đại ngã vũ trụ bao la đó, nhà thơ còn tìm lại được một thực thể vĩnh cửu khác. Đó chính là tình yêu. Trước hết là tình yêu của một nhà giáo với thiên chức “lương sư hưng quốc”, dành cho những mái đầu xanh đầy mộng mơ:
                   hãy đốt đuc hng đêm trên trái đt
                   cho núi r
ng và bin thm lung linh
                   các em là sáng r
c c vô minh
                   đ
anh có mt ngun vui bt tuyt
                Và đặc biệt là tình yêu em, người bạn đời chung lối với những giấc ngủ êm đềm, kể cả những ngày ốm yếu xanh xao, chia vui cộng khổ, lại là những giây phút hạnh phúc vô lường:
                    những ngày anh sng bên em
                    nh
ng trưa tóc ng êm đm biết bao
                    nh
ng ln em m xanh xao
                    nh
ng oan khiên dn anh vào đau thương
                    nh
ng đêm hnh phúc vô lường
                    đ
em cây c bên đường biết không
          Thế là trong vụn vỡ tan hoang, vẫn tồn tại một cái gì vĩnh cữu nguyên vẹn trong tâm hồn nhà giáo Nguyễn Đức Sơn. Anh đã tìm thấy tình yêu, yêu người và yêu em làm lẽ sống….

         




         


No comments:

Post a Comment