ANH ĐÃ VỀ THẬT RỒI
Ngô Quốc Sĩ
Tô Thùy Yên là một nhà thơ lớn được nhiều người
ái mộ. Anh đã để lại cho đời những tác phẩm giá trị như “Thơ Tuyển”, “Thắp Tạ”. Người ta thường nhắc tới những bài thơ đấu tranh
của anh như “Anh Hùng Tận,” “Bảy Tháng Kiên Giam”, “Phá Tam Giang”… Đặc biệt bài thơ “Ta Về” qúa truyền cảm, làm
nhiều người thổn thức đến nghẹn lời..
Ta về đâu và về từ đâu?
Xin thưa một cách xác thực là tác giả đã về từ kiếp đoạ đày trong nhà tù cộng sản
được mệnh danh là trại cải tạo, thực chất là địa ngục trần gian. Còn về đâu,
thì còn nơi nào khác ngoài cuộc đời thường nay cũng biến thành nhà tù lớn. Sau
cuộc đổi đời gọi là bi thảm, tất cả đã đổi thay. Người tù từ tù nhỏ trở về tù lớn
như bóng ma lạc loài, lủi thủi, chẳng ai nhận ra mình, nói chi đến chuyện trìu
mến để nâng vạt áo đề thơ:
Ta về
một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Có thể
nói mười năm lao động khổ sai, tù nhân đã biến dạng. Nếu Nguyễn Chí Thiện đã nhận
thấy nhà tù cộng sản biến con người thành vượn “Từ vượn lên người mất mấy triệu năm.Từ người xuống vượn mất bao năm”,
thì Tô Thùy Yên cũng chứng nghiệm nhà tù cộng sản đã biến con người thành con vật.
C0n người thật đã chết, đã nhắm mắt ngàn thu:
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấpChốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Rời
nhà tù nhỏ về tù lớn, người-vượn đã cảm thấy như đánh mất tất cả. Còn lại chỉ là
sầu hận, kết tụ thành hạt sương trên ngọn cỏ phất phơ giữa cõi sinh diệt:
Ta
về như hạt sương trên cỏ Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
Như hạt sương dễ vỡ, người tù
còn cảm thấy mình như sợi tơ mành, có thế đứt lìa bất cứ lúc nào. Thân xác mong manh mà hồn lại
quặn thắt, người tù cảm thấy lạc nẻo trong cõi u buồn thanh vắng:
Ta về như sợi tơ trời trắngChấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can
Thê
thảm nhất là người tù trở về đã trở thành xa lạ với chính mình. Cảm thức “ chết rồi” trong tù nay còn lởn vởn, biến người tù thành bóng ma hờn tủi.
Nhìn lại chính minh, người tù chỉ còn nhìn thấy từng mảnh phế liệu, từng hài cốt
vô danh:
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
Thế đó!
Ta chỉ còn là cái xác không hồn. Ta lê bước như thể bước xuống mộ, lẻo đẻo đi theo thần chết:
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Có
khi người tù trở về còn mang cảm thức của “đứa
con phung phá” trong Th ánh Kinh, bỏ nhà cha đi
hoang, rồi khánh kiệt,
thân tàn ma dại, ê chề
quay về xin tạ tội đã lỗi đạo làm con:
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Thậm
chí, người tù trở về còn mang mặc cảm vô dụng, chắng làm nên tích sự gì! Thế là đời
trai uổng phí thành
hư huyễn. Thôi!
Một mình đành thầm khóc cho chính mình như Kiều “nghĩ mình mình lại thương mình xót xa”
Con
gẫm lại đời con thất bátHứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Điều
đáng nói là cuộc trở về của Tô Thùy Yên tuy bi đát thật, nhưng đã thể hiện triết
lý của cuộc hành trình dương thế. Thật vậy! Nếu Phật giáo gọi đời là bể khổ, là
bến mê, và Lão giáo coi đời là phù vân hư ảo, thì cuộc trở về đời thường từ
then cài ngục thất của Tô Thùy Yên cũng không tránh khỏi tính cách bi đát đó. Nhưng
tác giả đã cảm thấy một nguồn an ủi lớn như thể lá rụng về cội. Đặc biệt, còn có
chén rượu nồng giải oan, làm ấm lại bếp lửa nhân quần, làm sống lại tình người
gắn bó:
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Một
khi có rượu giải oan thì oan khiên cũng tan biến, nhường chỗ cho hoa cười cỏ mướt.
Lúc ấy, người tù đã tìm lại được nguồn vui thuở nào, khi trại tù chưa giàn dựng,
khi cùm đỏ chưa cứa nát bàn chân:
Ta
về cúi mái đầu sương điểmNghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Niềm vui trở về sẽ là niềm vui phục sinh, giúp
Tô Thùy Yên tìm thấy hứng sống. Anh cảm thấy gần gũi với có cây hoa lá, sống lại
một trời kỷ niệm dấu yêu:
Chiều
nay ta sẽ đi thơ thẩnThăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
Thế rồi,
người tù đả cảm nghiệm được lượng từ bi của đất trời, cho người đã chết được sống
lại, cho vượn trở lại làm người:
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Thế là thỏa nguyện. ta
đã về nhà ta. Chỉ còn một ưu tư nhỏ, là ở tuổi hạc vàng, Tô Thùy Yên sợ không
còn thời gian để trải hết tâm tình với
nước, với người và với đời:
Ta về như hạc vàng
thương nhớMột thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta
Nay thì Tô Thùy Yên đã về thực,
về lòng đất mẹ, về nhà cha. Tính cách hữu hạn của kiếp người không cho anh trải
hết lòng mình cho nhân thế. Dù sao, bài thơ “Ta Về” cũng nói hết những u uẩn của lòng anh..