NẺO VỀ QUÊ HƯƠNG ĐÍCH
THỰC
Ngô Quốc Sĩ
Đời là một cuộc hành trình về quê hương
“sống gửi thác về”. Quê hương đích thực
đó là Niết Bàn trong cõi Phật, là “Nhà
Cha” trong tâm thức Kitô hữu. Ngay trong cuộc hành trình trần thế ngắn ngủi,
con người cũng có một quê hương để trở về, là cội nguồn tiên tổ, hay là nơi chôn
nhau cắt rốn, chôn dấu bao kỷ niệm tuổi thơ…
Tuệ Sỹ, một Thiền Sư, một Triết gia, và
một nhà trí thức yêu nước, luôn luôn ấp ủ
một tâm thức trở về trong sáng. Trở về với quê hương mơ ước vĩnh hằng, cũng như
quê hương hiện thực hôm nay..
Trước hết, là một triết gia thiền sư,
Tuệ Sỹ luôn luôn hướng về quê hương bên
kia bến mê khổ hải, mong sớm chấm dứt cõi sinh diệt, giã từ cuộc lữ hành trên
chuyến đò ngang để dừng chân nơi quê nhà.
nghe từ
thiên cổ
lời ru mênh mang
bước vào cuộc Lữ
mấy chuyến đò ngang.
Trên chuyến đò ngang ngắn ngủi đó, lữ
khách đã phải đối diện với thực tại bể dâu vô thường, với ánh tà dương ướt lệ,
với thiên địa hoang tàn:
Tà dương có khóc
Nắng ngả ánh vàng
Mưa bay thoảng chốc
Thiên địa hoang tàn
Lữ khách chỉ ngày đêm mong đò ngang tới
bờ đễ chấm dứt cuộc đời lưu ly, thấp thoáng nhìn thấy nẻo về quê hương đích thực
bên kia bờ tử sinh, với tâm thức giác ngộ:
Ðồi mai ngơ ngác nụ cười
cánh hồng lả mộng của đời lưu
ly
tồn sinh thấp thoáng nẻo về
dấu trơ bãi tuyết, ngoài tê
cánh hồng
Đó là nẻo về của một thiền sư. Đi vào
thực tế cuộc đời, đối
diện với thực tại, như một con tim Việt Nam, Tuệ Sỹ lại mơ về quê hương thanh bình bên kia hiện thực đất nước
tang thương hôm nay. Nhìn quê hương quằn
quại trong cùm đỏ, con tim Tuệ Sỹ đã se
thắt, bởi lẽ chỉ thấy đồng hoang nhỏ máu, sông dài huyết lệ, khói sương mịt mờ
hận tủi:
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu đồng
hoang
Chiều khói nhạt như lòng ai
còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ
lan tràn
Trên mảnh đất hoang tàn đó, nhà thơ không
còn tìm thấy con người, mà chỉ thấy lũ ma vương qủy sứ. Nếu Mục Sư Hoàng đã thấy
xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ là chuồng khỉ và Đức Tường chỉ thấy cả bầy chó
hoang, thì Tuệ Sỹ cũng chỉ thấy xã
hội Việt Nam hôm nay chỉ toàn lũ qủy ma từ âm ty kéo về tràn ngập cả rừng xanh, gieo sầu
tủi cho cả dân tộc:
Ta đã hát những bài ca của suối
Gã anh hùng bẻ vụn mặt trời
Gọi quỷ sứ từ âm ty kéo dậy
Ngập rừng xanh lấp lánh ma
trơi
Qủy Việt Nam hôm nay là qủy đỏ, chuyên
môn hút máu người. Với chủ trương “giết
giết nữa bàn tay không ngưng nghỉ”, thì sông nước thành sông máu, núi non
thành núi xương:
Ðêm qua chiêm bao ta thấy máu
Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
Bà mẹ soi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng
ngời.
Thế là sử Việt biến thành huyết sử gọi
là sử đen, nước tràn núi lở, như cơn hồng thủy nhận chìm đất nước và dân tộc xuống
đáy vực. Trời Đông chẳng còn thấy minh châu mà chỉ còn khói mù lấp kín. Quê hương đã chìm khuất, mịt mờ dưới mái tóc trắng rũ
rượi vô vọng:
Hận thù sôi giữa ráng chiều
Sông tràn núi lở nước triều
mênh mông
Khói mù lấp kín trời đông
Trời ơi tóc trắng rủ lòng quê
cha
Tuy trong đêm đen khói mù lấp kín trời
mây, với niềm uất hận dâng trào và niềm đau chất ngất bật thành tiếng khóc uất
nghẹn, Tuệ Sỹ vẫn không tuyệt vọng. Ông vẫn chờ đợi “một tia sáng cuối đường hầm”, đúng hơn, một ánh sao như niềm hy vọng
le lói giữa đêm đen hận thù:
Tôi vẫn đợi những đêm dài khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù, tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng.
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù, tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng.
Khi vì
sao hy vọng xuất hiện trong đêm tối ba mươi, thì trời Đông cũng lặng gió. Một
tia sáng bừng chiếu giữa mây mù, như thể ánh mắt sáng ngời của dân Việt soi thấu
lịch sử, giúp con cháu Lạc Hồng nhận chân được những nỗi bất hạnh của dân Việt
hôm nay và tương lai của dân tộc mai sau. Từ đó, đau khổ sẽ biến thành tin yêu,
đúng như mơ ước của Nguyễn Chí Thiện, máu sẽ nở thành hoa tô thắm sử Việt:
Tôi vẫn đợi những đêm đen
lặng gió
Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha.
Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha.
Chỗi dậy với ánh mắt tin yêu, dân Việt sẽ quên đi qúa
khứ tủi nhục đau buồn của thời sử đen. Đó là nỗi đoạn trường của người tị nạn
phải gạt lệ rời bỏ quê hương ra đi, đối diện với sóng gió, với tử thần và hải tặc
cuồng dâm. Đó cũng là nỗi đau tột cùng của người ở lại bị hành hạ trên hè phố, bị ruồng rẫy nơi công viên, bị cướp đoạt nơi làng xóm,
hay rũ liệt sau then cài ngục thất, như thể bị lưu đày trên chính quê hương mình.
Tôi vẫn đợi suốt đời quên
sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại giữa lòng tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại giữa lòng tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương
Và thêm nữa,
ngày đó dân Việt sẽ không còn phải nhìn thấy những trại tù dị sử, những hàng rào
kẽm gai treo xác tù nhân, những xiềng xích dính máu tinh hoa đất Việt:
Rồi trước mắt ngục tù thân
bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai, như ánh chớp, mây chiều.
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai, như ánh chớp, mây chiều.
Thế là
Tuệ Sỹ như một triết gia, đã trải vào thơ nỗi thao thức của người đời
trong cuộc hành trình trần thế, luôn luôn tìm về quê hương đích thực bên kia
sinh kiếp ngắn ngủi. Đồng thời như một nhà
trí thức yêu nước thương nòi, Tuệ Sỹ đã chia sẻ nỗi đắng cay của dân Việt trong
hoàn cảnh khốn cùng bị cộng sản đọa đày. Nhưng điều đáng cảm phục, là Tuệ Sỹ đã
đốt lên một ngọn nến, thắp lên một ánh sao, khơi dậy lòng tin yêu của dân Việt,
đợi ngày quê hương phục sinh. Mẹ Việt Nam đã tìm thấy hạt ngọc sáng ngời trong
tim con. Giấc mộng của Tuệ Sỹ, cũng chính là giấc mộng của dân Việt, lóng lánh
như suơng mai, êm nhẹ như mây chiều, và sáng ngời như châu ngọc…